Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam - pdf 14

Download miễn phí Đề tài Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam



MỤC LỤC
 
Trang
PHẦN I- GIỚI THIỆU CHUNG 2
PHẦN II- NỘI DUNG 5
1. Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước 5
1.1. Nhà nước 5
1.2. Chức năng của Nhà nước 6
1.3. Những quan điểm và học thuyết bàn về chức năng kinh tế của Nhà nước 6
1.4. Kết luận 10
2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 11
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta bước đổi mới 11
2.2. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước 12
2.3. Những đặc trưng của cơ chế kinh tế chúng ta đang hướng tới 13
3. Các mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước 15
3.1. Mục tiêu 15
3.2. Chức năng quản lý vĩ mô 16
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai trò quản lý
kinh tế của Nhà nước 17
PHẦN III- KẾT LUẬN 23
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ời thay mặt là Vua với vấn đề kinh tế trở nên khăng khít hơn. Chính vì vậy trong giai đoạn này ở phương Đông đã có một số quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà nước khá độc đáo.
Bàn về vấn đề này, ngay từ thời chiến quốc (476-221 TCN) ở Trung Quốc, trong học thuyết "bình dân kinh tế chủ nghĩa" Mạnh Tử cho rằng: chính sách kinh tế của Nhà nước phải hướng đến làm giàu cho dân. Dân giàu thì nước mạnh, không có nước nào dân giàu mà nước lại nghèo, ngược lại có thể có nước giàu, của cải chất đầy kho mà dân lại nghèo. Về cơ bản tương tưởng kinh tế của Mạnh Tử là: bản chất lợi ích của cá nhân thống nhất với lợi ích toàn xã hội, mọi người khi làm giàu cho mình thì cũng làm giàu cho toàn xã hội. Từ đó đặt lên vai trò của Nhà nước phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung đột lợi ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà phải thúc đẩy lợi ích xã hội. Như vậy ta thấy, từ thời Mạnh Tử Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực phân phối sản phẩm mà trước hết là khâu phân phối tư liệu sản xuất.
ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế xuất hiện rất sớm. Trên thực tế Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế và đã thu được những thành công cũng như không thành công. Sự xuất hiện sớm nhất về can thiệp Nhà nước vào nền kinh tế bắt đầu từ thời nhà Lý. Chế độ phong cấp ruộng đất của nhà Lý cho các quan lại đã dẫn tới sự hình thành các thái ấp, nhưng chỉ có rất ít ruộng đất biến thành ruộng đất tư mà phần lớn các ruộng đất vẫn là ruộng đất công thuộc quyền sở hữu của nhà Vua, người được phong đất chỉ có quyền chiếm giữ và sử dụng, việc bóc lột của chủ thái ấp vẫn chịu sự không chế cảu Nhà nước Trung ương. Bên cạnh Nhà nước trung ương đã huy động sức dân tiến hành khai hoang, đắp đê. Như vậy ngoài đặc điểm chung với các Nhà nước phong kiến phương Tây, Nhà nước phong kiến Việt Nam ngay từ đầu đã nhận thức rất rõ về quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Do đó, một mặt Nhà nước trao quyền sử dụng cho quan lại, mặt khác Nhà nước áp dụng các biện pháp để củng cố quyền sở hữu và kiểm soát được hoạt động của quan lại. Tuy đã có ý thức kiểm soát hoạt động trong các thái ấp nhưng trên thực tế Nhà nước trung ương không thể kiểm soát được toàn bộ hoạt động của họ.
Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách "hạn điền" và "hạn nô" với nội dung là hạn chế ruộng đất cấp cho quan lại và số nô tì mà các quan có thể có nhằm tránh lãng phí, tập trung sức mạnh kinh tế cho Nhà nước.
Năm 1429, sau khi đánh thắng giặc minh, nhà Lê ban hành chế độ quân điền và năm 1477 ban hành chế độ lộc điền. Thực chất đây là chính sách xoá bỏ kinh tế điền trang thái ấp hình thành từ thời nhà Lý. Chế độ Lộc điền là hình thức cấp lương cho quan lại bằng quyền sử dụng một diện tích ruộng đất nào đó tuỳ theo cấp bậc, còn Quân điền là chế độ phân phối ruộng đất cho dân tuỳ theo cấp bậc, còn Quân điền là chế độ phân phối ruộng đất cho dân tuỳ theo thứ bậc trong xã hội.
Sự suy tàn của Nhà nước phong kiến ở phương Tây (thế kỷ XV) gắn liền với sự hình thành Nhà nước tư sản, quá trình tích luỹ tư bản được bắt đầu thực hiện - nền kinh tế thị trường cũng bắt đầu được hình thành. Trong thời kỳ này để cho nền kinh tế phát triển nhanh giai cấp tư sản cần có sự trợ giúp của "bà đỡ" tức là cần có sự giúp đỡ của Nhà nước. Chính vì vậy vai trò quản lý của Nhà nước được xác lập và nâng cao. điều này được thể hiện trong tư tưởng kinh tế của những người theo trường phái trọng thưonưg. Cụ thể Nhà nước dùng chính sách tiền tệ nghiêm ngặt, tìm mọi cách để tích luỹ tiền tệ (tiền vàng), không cho tiền tệ chảy ra nước ngoài, họ cũng có những qui định nghiêm ngặt đối với các thương gia. Trong chính sách ngoại thương họ đẩy mạnh xuất khẩu thành phẩm, không xuất khẩu sản phẩm dở dang, nguyên liệu thô, trợ giá giúp đỡ cho xuất khẩu trong khi đó lại dùng hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu. cũng nhờ những chính sách này của Nhà nước mà trong giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ Nhà nước tư sản đã tích luỹ được một lượng của cải rất lớn.
Xã hội phát triển lên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất mới thì kiểu mua rẻ, bán đắt, nền kinh tế quá chú trọng vào thương nghiệp không còn phù hợp nữa. Một quốc gia muốn phát triển thì phải tăng cường sức sản xuất trong nước thông qua tăng năng suất lao động, xã hội lúc này cần một môi trường kinh tế tự do hơn giúp các nhà sản xuất có thể phát huy hết khả năng của mình. ở thời kỳ đó đã dâng lên một làn sóng ủng hộ tự do cạnh tranh mà người tiêu biểu nhất là nhà kinh tế học cổ điển Anh - Adam Smít (1723 - 1790) với học thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý"Nhà nước không can thiệp" vào hoạt động của nền kinh tế. Ông rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của nền kinh tế là do các qui luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động trên thị trường là do quan hệ cung - cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Con người hoạt động chỉ nhằm lợi nhuận siêu ngạch. Song do "bàn tay vô hình" chi phối buộc người ta phải tuân theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Để cho nền kinh tế hoạt động đạt hiệu quả Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường và hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào những vấn đề, những mặt mà sức của một doanh nghiệp không thể với tới như xây dựng đường xá, bến cảng.... Sự thực trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, nền kinh tế đã vận hành một cách năng động và đạt hiệu quả cao. Nhưng sự phát triển của tự do cạnh tranh đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền làm giảm hiệu quả phát triển và một vấn đề mà các nhà kinh tế học cổ điển không nghĩ tới đó là khủng hoảng kinh tế. Liên tiếp trong các năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra theo chu kỳ và các chu kỳ ngày càng rút ngắn mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933. Thuyết "bàn tay vô hình" không còn đủ sức đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và cân bằng nữa, thực tiễn đòi hỏi phải có mọt lý thuyết kinh tế mới phù hợp hơn. Và vào thời điểm này, J.M Keynes (1884 - 1946) đã đưa ra lý thuyết Nhà nước điều biết nền kinh tế thị trường với một thuyết có tên gọi "bàn tay hữu hình". Theo lý thuyết Keynes Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm pháp, thuế, bảo hiểm , trợ cấp đầu tư phát triển... ở tẩm vĩ mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. J.M Keynes và những người ủng hộ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status