Đề án Một số vấn đề về hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam - pdf 14

Download miễn phí Đề án Một số vấn đề về hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 3
1. Vai trò hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 3
1.1. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm 3
1.2. Đối với xã hội 4
2. Các nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 5
2.1. Nguyên tắc an toàn 5
2.2. Nguyên tắc sinh lời 6
2.3. Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên 6
3. Các nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 7
3.1. Vốn điều lệ 7
3.2. Quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện 8
3.3. Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng 8
3.4. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm 9
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 10
4.1. Các nhân tố bên trong 10
4.1.1. Các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm 10
4.1.2. Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm 15
4.1.3. Chính sách phân phối lợi nhuận 16
4.1.4. Các quan điểm đầu tư của người quản lý đầu tư 16
4.2. Các nhân tố bên ngoài 16
4.2.1.Chế độ thuế 16
4.2.2. Các điều kiện của thị trường vốn 17
4.2.3. Một số công cụ quản lý khác của Nhà nước 17
5. Các hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 18
5.1. Cho vay có thế chấp 18
5.2. Đầu tư chứng khoán 19
5.2.1. Cổ phiếu 19
5.2.2. Trái phiếu 20
5.3. Đầu tư bất động sản 21
5.4.Các hình thức đầu tư khác 21
6. Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm 22
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM HIÊN NAY 24
1. Những kết quả đạt được 24
2. Một số hạn chế 25
III. MỘT SỐ Ý KIẾN, GIẢI PHÁP 27
1. Giải pháp ở tầm vĩ mô 27
1.1. Về cơ chế chính sách 27
1.2. Về vai trò quản lý của Nhà nước 28
2. Các giải pháp đối với doanh nghiệp 28
LỜI KẾT 30
Tài liệu tham khảo 31
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

nguồn vốn đầu tư chiểm tỷ trọng nhỏ, nhưng cũng góp phần làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm.
3.3. Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng
Cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp bảo hiểm được phân phối cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức, trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.., phần còn lại chưa sử dụng sẽ bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm còn có các quỹ đầu tư hình thành từ lợi tức để lại, đảm bảo cho những hợp đồng có cam kết chia lãi.
3.4. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Quỹ dự phòng nghiệp vụ là một đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thường có một số quỹ dự phòng nghiệp vụ như dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn. Còn đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có dự phòng toán học, dự phòng bồi thường, dự phòng đảm bảo cân đối, dự phòng cam kết chia lãi.
Cuối mỗi năm tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ từ quỹ tài chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách nhiệm còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ dự phòng nghiệp vụ thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường hết ngay. Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm có thể lấy chính từ tiền phí thu trong năm để chi trả bồi thường cho phần trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng được ký từ năm trước. Do vậy, sẽ có một phần quỹ dự phòng nghiệp vụ là “ nhàn rỗi ” có thể đem đi đầu tư để kiếm lời. Tuỳ theo quy định của từng nước mà việc xác định bao nhiêu trong số các quỹ dự phòng nghiệp vụ được coi là “ nhàn rỗi ” để doanh nghiệp bảo hiểm được đem đi đầu tư.
Tại Việt Nam, tại Điều 13 Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm như sau :
“Điều 13. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
1. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ.
2. Khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
3. Khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam ”
Trong các nguồn vốn đầu tư trên, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ( có thể trên dưới 90% ) và việc đầu tư nguồn vốn này cũng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
4.1. Các nhân tố bên trong
4.1.1. Các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Đây là nhân tố then chốt quyết định sự lựa chọn các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm, đặc biệt là nghĩa vụ đối với người được bảo hiểm ( khách hàng ). Nghĩa vụ này được quy định tại các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Nếu như không có sự quản lý hoạt động đầu tư một cách chặt chẽ và có hiệu quả, chính sách đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có xu hướng tìm kiếm các hình thức đầu tư sao cho thu được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở các tài sản hiện có. Nhưng do tiền đem đi đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phần lớn là lấy từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ, nên khi đầu tư doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ được tính đến lợi nhuận mà đồng thời phải đảm bảo khả năng đáp ứng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người được bảo hiểm. Bởi vậy, hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phụ thuộc vào bản chất các nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với người được bảo hiểm. Và mỗi hình thức đầu tư lại có khả năng gặp phải những loại rủi ro khác nhau. Nói cách khác, xét trên quan điểm lựa chọn danh mục đầu tư, không có khái niệm chung về rủi ro đầu tư cho tất cả tiền doanh nghiệp đem đi đầu tư , rủi ro đầu tư tồn tại chỉ liên quan đến trách nhiệm cụ thể theo hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các loại hợp đồng bảo hiểm tương tự nhau sẽ có xu hướng gặp phải các rủi ro đầu tư giống nhau, trong khi đó các công ty bảo hiểm cung cấp các loại hợp đồng bảo hiểm khác nhau sẽ có các rủi ro đầu tư khác nhau.
ảnh hưởng của nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được thể hiện rất rõ nét thông qua sự khác biệt giữa nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm 2 loại chủ yếu:
Nghĩa vụ đối với người được bảo hiểm : Thực hiện thông qua việc lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ bao gồm :
+ Dự phòng bồi thường cho các khiếu nại đã xảy ra nhưng chưa giải quyết, kể cả các khiếu nại đã xảy ra nhưng chưa có thông báo. Những đoán về mức thanh toán khiếu nại trong tương lai thường không chắc chắn kể cả đoán về thời gian xảy ra khiếu nại lẫn số tiền phải trả cho việc giải quyết khiếu nại. Chính sự không chắc chắn này là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chính sách đầu tư. Do một doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có thể phải đối mặt với tình trạng mức khiếu nại tăng cao một cách bất thường và do sức ép của cạnh tranh đòi hỏi công ty phải thanh toán các khiếu nại trong thời gian ngắn, nên thông thường doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải đầu tư một tỷ lệ đáng kể vào những tài sản có tính thanh khoản cao để đảm bảo chi trả cho các khoản bồi thường này.
Tính thanh khoản của tài sản đầu tư có 2 đặc điểm :
Thứ nhất : Không bị biến động lớn về giá trong thời gian ngắn, từ đó làm giảm rủi ro đầu tư.
Thứ hai: Tồn tại một thị trường để có thể chuyển đổi tài sản đó thành tiền mặt nhanh chóng khi phải bán gấp.
Vì vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có xu hướng nắm giữ trái phiếu ngắn hạn và dễ bán cũng như các công cụ của thị trường tiền tệ để đảm bảo cho những trách nhiệm bồi thường sau này. Yêu cầu về ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status