Môi trường và bệnh thủy sản - pdf 15

Download miễn phí Môi trường và bệnh thủy sản



Từ năm 2007 đến nay , hiệntượng nghêu Meretrix lyrata chết hàng lo ạt tạiCần
Giờ đãxảy ra liên tục, thường vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5dương lịch) hàng
năm; tỷ lệ chết đặc biệt cao (70-80%) vào tháng 3-4dương lịch.Mộtsố nghiêncứuvề
nguy ên nhân gây chết nghêuCần Giờ đã được tiến hành và xác định, tuy nhiên,
nguy ên nhân chính gây chết nghêuvẫn còn là câuhỏilớn đốivới người nuôi, các nhà
quản lý và các nhà khoahọc.Mục tiêucủa nghiêncứu này sẽ tìm hiểuvề hiện trạng
nuôi vàdịchbệnh nghêu; cũng như phân tích, xác địnhsự hiện diện của ký sinh trùng
Perkinsus sp. trên nghêu nuôi để xác định nguy ên nhân gây nên hiệntượng nghêu chết
ởCần Giờ trong th ời gian qua.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ùng trong thí nghiệm: Bokashi trầu 901 ppm; Formol, 511 ppm; CuSO4, 106 ppm;
Xanhmethylen, 154pPhần mềm và nước muối 49‰. Đối với trùng bánh xe (Trichodina)
nồng độ Bokashi tăng từ 200 – 500pPhần mềm sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm 35 xuống 12% và
cường độ nhiễm giảm từ 8,2 ± 0,4 xuống 1,2 ± 0,8 trùng/vi trường; Formol có tác
dụng tương tự từ 100 – 200 ppm, giảm từ 14 đến 0 và 9,3 ± 0,5 đến 0; CuSO4 3 đến
7 pPhần mềm có tác dụng giảm từ 23 đến 12% và 7,9 ± 0,6 đến 1 ± 0,0; Xanhmêthylen với
liều 3 – 7pPhần mềm sẽ có tác dụng giảm từ 9 xuống 1% và 2,3 ± 0,9 xuống 1,0 ± 0,0;
nước muối từ 20 – 49% có tác dụng 31 – 13% và giảm từ 7,8 ± 1,6 xuống 2,2 ± 0,2.
Tương tự với trùng quả dưa (Ichthyophthyrius), kết quả cho thấy các liều như trên
Formol là kháng chất có tác dụng tốt, còn đối với sán 16 móc (Dactylogyrus), hầu
như cả 5 loại kháng chất đều không có tác dụng mà có duy nhất với 2 loại thuốc
giun sán Albendazole và Dipterex là có tác dụng, còn 5 loại trên đều gây ra tỷ lệ cá
chết cao nếu tăng nồng độ xử lý trên ngưỡng đã xác định nồng độ thử nghiệm.
11
NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH TÁCH CHIẾT TINH DẦU, SỰ THÍCH ỨNG CỦA
VI KHUẨN LACLOBACILLUS TRONG MÔI TRƯỜNG DỊCH CHIẾT
VÀ TINH DẦU LÁ TRẦU
Nguyễn Thị Bích Đào
Sinh viên khóa 41 Ngư y – Khoa Thủy sản,
Trường đại học Nông Lâm Huế
Bokashi trầu được sản xuất bởi Dự án SXTN cấp NN độc lập 2009-2010 tại
Khoa Thủy sản, Trường đại học Nông Lâm Huế, bước đầu sử dụng rộng rãi và cho kết
quả tốt trong việc phòng trị các bệnh do vi khuẩn và ký sinh trùng gây ra cho động vật
thủy sản. Việc xác định vai trò của nhóm vi sinh vật Lactobacillus trong môi trường
tinh dầu lá trầu có ý nghĩa rất quan trọng cho việc kết hợp EM gốc với các chất kháng
khuẩn trong chất chiết lá trầu của chế phẩm Bokashi. Hàm lượng tinh dầu lá trầu được
phân tích bằng phương pháp chưng cất và kết quả có hàm lượng 1,02% trong vật chất
tươi (FM), chiếm 5,52% trong vật chất khô (DM). Kết quả phân tích qua GCMS cho
thấy hàm lượng eugenol chiếm tỉ lệ cao nhất 38,17%; chavicol 0,84%; Estradiol
0,02%; Chavicol acetate, 2,39%; Phenol, 3-allyl -2-methoxy, 14,65%; trans-
caryophyllene, 1,74% và Eugenyl acetate, 22,0%; 2-(Acetyloxy) -4-allylphenyl
acetate, 20,12%. Trong môi trường tinh dầu lá trầu, các loài Lactobacillus đã có sự
thích ứng nhất định để tồn tại hỗ trợ cho các chất kháng khuẩn như Eugenol, chavicol
và Estradiol. Thí nghiệm được tiến hành lặp lại 3 lần ở cả tinh dầu lá trầu và eugenol
tinh khiết, kết quả cho thấy sau 3 lần lặp lại trong môi trường tinh dầu nguyên chất và
môi trường eugenol tinh khiết, các vi khuẩn nhóm Lactobacillus vẫn phát triển, chúng
thay đổi về màu sắc, kích thước của khuẩn lạc trong thời gian nuôi cấy ở 24h, 36h và
48h, tốc độ mọc các khuẩn lạc không đổi kể từ 72h nuôi cấy trở đi, các loài
Lactobacillus casei và Lc. Plantarum được xác định tồn tại và thích ứng.
12
TÌM HIỂU TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC CÁT SẠN Ở SÔNG
HƯƠNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Dược,
Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Thị Thúy Hải,
Lê Thị Mỹ Khanh, Lê Công Tuấn
Khoa Thủy Sản, Trường đại học Nông Lâm Huế,
102 Phùng Hưng thành phố Huế
Cát sạn là một trong những nguyên liệu quan trọng trong nhu cầu xây dựng của
con người, khai thác cát hiện nay đang là một nghề hái ra tiền đối với các chủ phương
tiện cũng như các chủ bến bãi. Bởi lợi nhuận lớn mà nó đem lại nên các hộ dân đã bất
chấp tất cả để tiếp tục tiến hành hoạt động này cho dù bị ngăn cấm và xử phạt hành
chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy gần 70% khu vực khai thác không có giấy phép,
tổng sản lượng khai thác ước tính hơn 35.000.000 m3 /1 năm. Trong số hàng trăm bến
bãi, địa điểm khai thác cát, sạn trái phép thì khu vực thượng nguồn sông Hương thuộc
xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy có quy mô lớn nhất (chiếm gần 50% sản lượng).
Thời gian hoạt động cao điểm vào mùa xây dựng tháng 4 đến tháng 7. Hoạt động khai
thác diển ra ồ ạt, thiếu kiểm soát ở vùng thượng nguồn sông Hương đã dẫn đến các tác
động tiêu cực đến dòng sông hương:
1) Việc khai thác cát, sạn đã làm đổi dòng chảy của sông, là một trong những
nguyên nhân chính làm sạt lỡ nhiều vùng bờ sông từ 5 - 10m, gần 40 căn nhà dân và
đe doạ nhiều ha đất nông nghiệp va một số đền, đài, thành quách ven sông đã được
UNESCO công nhận di tích lịch sử văn hóa.
2) Một lượng dầu lớn bắt nguồn từ các động cơ khai thác phóng thích vào môi
trường nước sông Hương, ngăn cản quá trình trao đổi khí của nước từ đó làm giảm
chất lượng nước, đe doạ trực tiếp đến đời sống thuỷ sinh vật.
3) Khai thác cát bằng máy hút sẽ cày xới nền đáy, tạo nên sự xáo trộn mạnh các
tầng nước, tăng độ đục, phá huỷ môi trường sống, nơi sinh sống của nhóm sinh vật đặc
13
hữu có chức năng duy trì sự trong sạch của sông Hương là các loài rong, động vật 2
mảnh vỏ.
TÌNH HÌNH DI NHẬP VÀ PHÁT TÁN RÙA TAI ĐỎ (TRACHEMYS
SCRIPTA ELEGANS) Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Phạm Thị Tuyết Mai, Lê Công Tuấn,
Phạm Anh Quốc, Phan Hữu Hợp
Khoa Thủy Sản, Trường đại học Nông Lâm Huế,
102 Phùng Hưng thành phố Huế.
Nghiên cứu sự di nhập và phát tán của rùa tai đỏ ở tỉnh Thừa Thiên Huế được
thực hiện trong năm 2011, kết quả đề tài cho thấy: Rùa tai đỏ được di nhập từ thành
phố Hồ Chí Minh vào tỉnh Thừa Thiên Huế vào khoảng năm 2007 với mục đích di
nhập rùa tai đỏ về là để nuôi làm cảnh 98% và một số trại nuôi nhằm nuôi thương
phẩm và sản xuất giống 2%. Số lượng rùa tai đỏ di nhập vào tỉnh Thừa Thiên Huế ước
tính hơn 200 con, tập trung chủ yếu ở địa bàn thành phố Huế nhưng đã ghi nhận sự di
nhập vào hầu như tất cả các vùng của tỉnh như Phú Thuận, Thuận An (vùng ven biển)
và A Lưới (vùng núi). Điều kiện nuôi rùa tai đỏ tại tỉnh Thừa Thiên Huế là các bể xi
măng với độ sâu <1m và 0,5m cao so với mặt bằng sân nền nhà (98%) và nuôi trong
hệ thống bể kính (2%), với đặc thù là vùng thường xuyên xảy ra lũ lụt nên rùa tai đỏ
nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế có nguy cơ cao phát tán ra ngoài tự nhiên qua việc ghi
nhận sự xuất hiện rùa tai đỏ ở các thủy vực sông (chiếm 53,3 %), hồ tự nhiên (chiếm
13,3% ), hồ nhân tạo trong các công viên (chiếm 33,4%). Hiện nay, sau khi biết về tác
hại của rùa tai đỏ nhiều hộ có xu hướng không nuôi nữa mà thả rùa ra các thủy vực
(13,7%). Số hộ vẫn tiếp tục nuôi (82,2%), số hộ bị thất thoát rùa theo con đường tự
nhiên, lụt..(4,1%). Bên cạnh đó ở tỉnh Thừa Thiên Huế còn có tục lệ phóng sinh thủy
động vật vào những ngày rằm và trong đó rùa tai đỏ củng là một đối tượng được
phóng sinh nên nguy cơ rùa ta đỏ bị thất thoát ra ngoài tự nhiên là rất cao. Nhận thức
của người dân về tác hại của rùa tai đỏ, đa số người dân đều biết về tác hại của chúng
qua các phương tiện thông tin đại chúng sau khi có thông báo toàn quốc (96%). Tuy
nhiên một số người dân vẫn chưa biết đó là loài rùa gì và chưa biết tác hại của chúng
14
ra sao (4%). Những nơi buôn bán rùa tai đỏ trước đây đã không nhận và bán đối ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status