Người nông dân Việt Nam với sáng chế - pdf 15

Link tải luận văn miễn phí cho ae

Cuộc sống của người nông dân là rất vất vả. Họ tất bật với công việc đồng áng, một nắng hai sương ở trên đồng ruộng, đầu tắt mặt tối với công việc gia đình. Do đó hiện nay nhu cầu máy nông nghiệp phục vụ sản xuất và các loại máy phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của nông dân là rất lớn và phong phú để làm cho cuộc sống của họ đỡ vất vả hơn. Nhưng ngành cơ khí nông nghiệp trong nước chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của họ.Bên cạnh đó những máy móc mà những nhà khoa học làm thường là những máy móc rất lớn ở tầm vĩ mô, mà người nông dân cần những thứ phục vụ ngay cho sản xuất và cuộc sống hàng ngày. Từ những nhu cầu đó bằng những kinh nghiệm tích lũy được trong lao động, sản xuất thực tế những người nông dân đã trở thành những nhà sáng chế ra các trang thiết bị phục vụ cho công việc của họ. Những cải tiến, sáng chế đó đã góp phần làm vơi đi nỗi vất vả cho bà con nông dân và đạt được hiệu quả kinh tế đáng ghi nhận.
Những thiết bị phục vụ công việc đồng áng, chăn nuôi, sinh hoạt gia đình, bảo vệ hoa màu… được nông dân làm ra theo “đơn đặt hàng của cuộc sống”. Điều này cho thấy tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam. Tuy nhiên, từ đây cũng nảy sinh câu hỏi về mối quan hệ giữa các nhà khoa học, cơ sở sản xuất công nghiệp và người nông dân. Các nhà khoa học đã cố gắng rất nhiều và đã cho ra đời nhiều sản phẩm nhưng so với nhu cầu bức thiết của nông dân thì chưa thấm tháp vào đâu. Cũng cần nói rõ rằng, đối tượng của sản xuất nông nghiệp rất đa dạng, các vùng miền có điều kiện tự nhiên (địa hình, đất đai…), trình độ, tập quán canh tác khác nhau… nên yêu cầu về máy móc nông nghiệp cũng rất đa dạng, cần có thời gian thì nhu cầu về máy của nông dân mới dần dần được đáp ứng.
Công việc sáng chế của người nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Họ cần được sự quan tâm của đảng, nhà nước, của các cấp chính quyền địa phương.Những sáng chế của họ là rất cần thiết cho cuộc sống thực tế. Chính vì lẽ đó nhóm em quyết định chọn đề tài “ Nông dân Việt Nam với sáng chế” với hy vọng giúp cho mọi người hiểu được tầm quan trọng từ những sản phẩm sáng chế của người nông dân-không chỉ những nhà khoa học có bằng cấp mới biết sáng chế, hiểu được những khó khăn của những “ nhà sáng chế chân đất”.

I/ Giới thiệu chung :
1.Về người nông dân:
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Nông dân, chủ thể chính của tam nông luôn có đóng góp vô cùng lớn cho đất nước, kể cả trong chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước. Vậy nhưng sự ghi nhận, tưởng thưởng cho họ nhiều khi chưa thật xứng đáng. Hiện nay, số lớn nông dân vẫn còn nghèo, khó khăn bởi cơ chế, chính sách đôi khi còn cản trở họ. Làm sao tạo sức bật cho nông dân tiến lên làm giàu, xoá đói giảm cùng kiệt vượt lên.
Nông dân là những người có khả năng sáng tạo, đức tính cần cù, đôi bàn tay tài hoa, rất bền chí, dám “liều lĩnh” biết chấp nhận để vượt qua thành kiến của dư luận xung quanh. Họ luôn có niềm tin mãnh liệt về sản phẩm sẽ tạo ra trong tương lai và quyết tâm theo đuổi.
Họ có những thành quả lao động bền bỉ, sáng tạo thật đáng khâm phục và trân trọng. Đa số họ không được đào tạo bài bản, chưa có lý thuyết về cơ khí và chế tạo máy, nhưng từ bức xúc trong công việc hằng ngày của nhà nông mà đã mày mò, chế tạo thành công nhiều loại máy góp phần làm tăng năng suất lao động, giải phóng sức người.
2.Về thực trạng sử dụng máy móc:
Việc áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp được coi là một trong những yếu tố quyết định , đảm bảo sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Thực tế cho thấy , ở nông thôn nước ta hiện nay nhiều hộ gia đình nông nghiệp đã tiếp thu và vận dụng những thành tựu , tiến bộ của khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất , đặc biệt là họ đã biết cách sử dụng các loại giống mới, các cách làm mới trong trồng trọt và chăn nuôi , đem lại hiệu quả kinh tế cao , do vậy đời sống của người dân cũng phần nào được cải thiện.
Cả nước hiện có khoảng 1.300 cơ sở chuyên sản xuất, kinh doanh các loại máy kéo, máy nông nghiệp và thiết bị cơ khí phục vụ nông nghiệp; 1.218 cơ sở chuyên sửa chữa, bảo dưỡng bảo hành máy móc, thiết bị cơ khí, nhưng nhìn chung vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu; trong khi đó, lượng máy nhập khẩu thấp.
Cả nước có khoảng 22.000 ô tô loại nhỏ, 20.000 tàu, thuyền gắn máy, có thể đảm bảo 80% việc vận chuyển ở nông thôn. Số lượng máy kéo các loại có khoảng 300.000 chiếc, tổng công suất 3,5 triệu mã lực. Trong đó đa phần là máy kéo 2 bánh dưới 15 mã lực (75,3%), máy kéo 4 bánh 15-35 mã lực (15,2%), máy kéo trên 35 mã lực chỉ chiếm 9,5%. Tây Nguyên là địa bàn có tỷ lệ sử dụng máy nông nghiệp cao nhất, chiếm 34,54%, thấp nhất là trung du miền núi phía Bắc (4,47- 6%) và duyên hải Nam Trung Bộ (4,29 - 4,53%).
Đất đai manh mún, quy mô ruộng đất phân tán, nhỏ lẻ làm cho việc sử dụng máy móc, thiết bị nông nghiệp khó phát huy tác dụng, chi phí cao trong khi hiệu quả thu được lại thấp. Nếu xét trên góc độ kĩ thuật thì máy móc gần như luôn đạt hiệu quả ( nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm). Nhưng để có hiệu quả trên góc độ kinh tế thì phải xét tới chi phí của nó.Người nông dân chưa mạnh dạn đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp vì lo ngại sẽ tăng chi phí. Mặt khác giá cả máy móc, nhiên liệu chưa thực sự khuyến khích nông dân sử dụng máy móc.
Các loại máy móc thiết bị trên thị trường sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt hiện nay là rất đa dạng. Các nhà khoa học đã cố gắng rất nhiều và đã cho ra đời nhiều sản phẩm nhưng so với nhu cầu bức thiết của nông dân thì chưa thấm tháp vào đâu. Cũng cần nói rõ rằng, đối tượng của sản xuất nông nghiệp rất đa dạng, các vùng miền có điều kiện tự nhiên (địa hình, đất đai…), trình độ, tập quán canh tác khác nhau… nên yêu cầu về máy móc nông nghiệp cũng rất đa dạng, cần có thời gian thì nhu cầu về máy của nông dân mới dần dần được đáp ứng.
Trong điều kiện về kinh tế, kỹ thuật và những điều kiện sản xuất về nông nghiệp ở nông thôn nước ta hiện nay, các thiết bị cải tiến, tự chế ngày càng nhiều. Những năm qua, tại các miền quê từ Bắc vào Nam, nông dân đã chế tạo và cải tiến thành công nhiều loại máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp như máy gặt đập liên hoàn, máy tẽ ngô, bóc tách hành tỏi, hút bùn… Xuất phát từ những khó khăn gặp phải trong công việc hằng ngày, họ mày mò chế tạo ra các loại máy dựa trên mẫu máy của các viện nghiên cứu trong nước, hay mẫu máy nhập ngoại, hay tự nghĩ ra để cải tiến và chế tạo ra máy móc phù hợp với điều kiện sản xuất ở địa phương mình.


8g0Z921j3rp62vz
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status