Hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan Công an thị xã Tân Châu - pdf 16

Chia sẻ miễn phí cho các bạn tài liệu
Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo những lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã sớm khẳng định mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
Xây dựng chế độ nhà nước dân chủ với nguyên tắc "Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân", là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã ra chỉ thị số 30 về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việc ra đời Chỉ thị số 30-CT/TW và các Nghị định của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa thể chế hóa quan điểm của Đảng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, vừa thể hiện tính cấp thiết của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Mặt khác, thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở sẽ góp phần chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân; đồng thời xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực; góp phần củng cố, xây dựng bộ máy Đảng, cơ quan Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Thực tiễn cho thấy: ở đâu cấp ủy Đảng nhận thức rõ và quan tâm chăm lo đúng mức tới việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thì ở đó kinh tế phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, an ninh chính trị được giữ vững, ổn định; hệ thống chính trị ở nơi đó trong sạch, vững mạnh tạo được niềm tin của nhân dân với Đảng với chính quyền, động viên và huy động được sức lực, trí tuệ của nhân dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương đạt hiệu quả cao.
Ngược lại, nếu như địa phương, cơ quan nào không thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, hay triển khai thực hiện một cách hình thức, qua loa đại khái thì ở đó đời sống nhân dân gặp khó khăn, kinh tế trì trệ, chậm phát triển, an ninh chính trị mất ổn định, tình hình kiến nghị, khiếu kiện vượt cấp của nhân dân gia tăng; nội bộ cơ quan sẽ dẫn đến mất đoàn kết , chia rẽ, bè phái, cục bộ, quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác .
Với tinh thần đó, Đại hội IX, X của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng lâu dài và cấp thiết của vấn đề dân chủ, khẳng định mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tui chọn vấn đề: "Nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan Công an thị xã Tân Châu " làm đề tài tiểu tiểu luận với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan Công an thị xã Tân Châu, đồng thời góp phần hoàn thiện lý luận về thực hiện Quy chế dân chủ.































PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỂ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện dân chủ ở cơ sở.
1.1.1. Khái niệm thực hiện dân chủ cơ sở.
* Khái niệm dân chủ:
Dân chủ là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong tiếng Hy Lạp đã xuất hiện khái niệm dân chủ “ Dân chủ là một khái niệm chỉ một chế độ xã hội, ở đó nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực”. “ Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân”. Dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, một hình thái Nhà nước “Dân chủ là một chế độ chính trị”.
* Thực hiện dân chủ cơ sở là gì:
Dân chủ cơ sở kông phải là hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ thay mặt và dân chủ trực tiếp. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải được cụ thể hóa ở các cấp độ: Trung ương, địa phương và cơ sở. Dân chủ - trước hết là một chế độ chính trị. Nhà nước là cơ quan thay mặt cho quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; song nhà nước không thể hiểu hết được tâm tư nguyện vọng của nhân dân ở các vùng, miền địa phương có những đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội, địa lý, tập quán khác. Do đó, phát huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân vừa là quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân vừa là cuộc vận động dân chủ phát huy tính sáng tạo, trí tuệ của muôn người trong xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đồng thời qua đó là điều kiện tốt nhất để khắc phục bệnh quan liêu và chống những hiện tượng và hành vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy nhà nước. Thực hiện dân chủ cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các quyền làm chủ của công dân, tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở là khâu quan trọng và cấp bách trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta. Như Nghị quyất Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành trung ương khóa VIII (6/1997) đã nhấn mạnh: lúc này để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.

1.1.2. Vai trò thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là "dân là chủ”; đối lập với quan niệm "quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn, gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Người nhấn mạnh: "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ".
Quan niệm dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn: "Dân là chủ" và "Dân làm chủ"'. Dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai vế này luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân, phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.
Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội, Hồ Chí Minh còn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân. Đó là quan điểm gốc để Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân.
Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, là sản phẩm của văn minh nhân loại, xem nó như là lý tưởng phấn đấu của các dân tộc.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc thực hành dân chủ trong đó xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi và xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã "thiết kế" một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
Dân chủ ở nước Việt Nam mới được thể hiện và được bảo đảm trong đạo luật cơ bản nhất là các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông qua.
Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 5) và đặc biệt ở Điều 6 ghi rõ: "Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân".
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ, nên xuyên suốt trong quá trình cách mạng Việt Nam, có một quan điểm hết sức đúng đắn và khoa học, đã trở thành nguyên tắc, là kim chỉ nam trong mọi đường lối chỉ đạo cách mạng của nước ta, được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra là: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”; coi quần chúng là lực luợng quyết định thắng lợi mọi cuộc cách mạng ở nước ta.
Mặt khác, Đảng ta luôn khẳng định: muốn phát huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì Đảng và Nhà nước ta phải tạo ra những thể chế, chủ trương , chính sách thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một khi quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm, thì sẽ tạo nên một nền tảng và cơ sở vững chắc để các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện được điều đó, thì việc dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị - xã hội; nhằm tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào việc quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng và bảo vệ đất nước là một quan điểm đúng đắn, sáng suốt.
Vì lẽ đó trong hoạt động của mình, Đảng cộng sản Việt Nam luôn xác định việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nguyên tắc trong hoạt động, hơn thế còn nâng cao lên thành bài học: “ dân là gốc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân”; Đảng ta cũng chỉ rõ: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp sau đó, văn kiện các Đại hội VII, VIII, IX và gần đây là văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam và nhiều hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng đều tiếp tục khẳng định và phát triển vấn đề dân chủ theo xu hướng ngày càng đi vào chiều sâu.
Việc Đảng và Nhà Nước ta nhiều lần khẳng định, đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương: “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước mong muốn xây dựng Nhà nước ta thật sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; quyền làm chủ của nhân dân sẽ được tôn trọng, có điều kiện tối ưu để phát huy, phát triển và được đảm bảo thực hiện pháp luật của Nhà nước.
Do đó, một sự kiện đặc biệt, rất có ý nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội nước ta là ngày 28/02/1998, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW “ về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, với mục tiêu cao cả là nhằm tiếp tục giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, và mất dân chủ
Đây không chỉ là những tiền đề đặc biệt quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên đất nước ta mà còn là cơ sở, là công cụ để khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân chủ ở cơ sở đã và đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi. Tuy nhiên, mục đích cao nhất của Đảng và Nhà nước ta mong muốn khi ban hành Chỉ thị này là nhằm tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phuơng châm: “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhằm xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua thực tiễn cách mạng ở nước ta thì cơ sở chính là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Trên cơ sở đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn (nay được thay bằng pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã); Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan Nhà nước và nghị định số 07 về ban hành Quy chế dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước.
Sau gần 10 năm triển khai, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã thu được nhiều kết quả tích cực trên mọi mặt của đời sống xã hội; trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dù còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế, song Quy chế dân chủ ở cơ sở đã bước đầu tạo được một không khí dân chủ trong các hoạt động chính trị, kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong xây dựng đất nước.
Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.Cụ thể là :


P5x63XPo4beCjYu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status