Các tiêu chuẩn cơ bản của việc định giá trị văn bản - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Các tiêu chuẩn cơ bản của việc định giá trị văn bản



Thẩm quyền hình thức được hiểu chủ thể ban hành văn bản với tên gọi theo đúng quy định của pháp luật. Có những trường hợp, người ban hành dễ dàng lựa chọn đúng tên gọi của văn bản để giải quyết công việc thuộc thẩm quyền vì pháp luật đã quy định rõ. Ví dụ: để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, các chủ thể chỉ được lựa chọn duy nhất quyết định để ban hành; để ghi nhận lại và mô tả hành vi vi phạm hành chính của đối tượng vi phạm, người có thẩm quyền phải lựa chọn biên bản. Nếu Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cần chỉ đạo cấp dưới nhưng lựa chọn chỉ thị bị coi là ban hành văn bản trái thẩm quyền về hình thức vì theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ không có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư với tư cách văn bản quy phạm pháp luật.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ới lại do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam soạn thảo, vì vậy có tình trạng không thống nhất về chỉ đạo xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện Luật.
- Về tác giả:
Trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không thể phủ nhận vai trò của người soạn thảo, với tư cách là người “chắp bút”, người đặt những “viên gạch” đầu tiên để xây dựng “nền móng” cho những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tại sao cần thiết phải nhấn mạnh đến trách nhiệm của người soạn thảo văn bản? Vì nếu các quyết định được ban hành một cách vội vã, thiếu cơ sở thực tế thì tính khả thi của văn bản sẽ rất thấp. Người soạn thảo có trách nhiệm là người biết đầu tư thời gian, công sức cho việc chuẩn bị một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trước hết, họ phải biết các nguồn để tiến hành nghiên cứu mới cho từng dự thảo văn bản. Nếu việc xây dựng văn bản chỉ căn cứ vào các yêu cầu, nguyện vọng của nhà quản lý mà không tính đến nguyện vọng của đối tượng bị quản lý (người dân và các đối tượng sẽ chịu sự tác động trực tiếp của văn bản) thì dù văn bản có được soạn thảo kỹ lưỡng hay được chuẩn bị đầy đủ, văn bản đó vẫn luôn luôn thiếu căn cứ thực tiễn và văn bản được ban hành sẽ thiếu tính khả thi hay không có hiệu quả cao trên thực tế. Để khắc phục những hạn chế này, trước khi soạn thảo, người soạn thảo phải có những đánh giá, tổng kết thực tiễn hoạt động quản lý, tình hình thi hành pháp luật, đồng thời căn cứ vào nhu cầu quản lý cũng như tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; thậm chí phải tham khảo, lấy ý kiến của nhân dân trước khi soạn thảo, ban hành văn bản. Thứ hai là dù quan điểm của người soạn thảo văn bản là rất quý báu và xuất phát từ kinh nghiệm quản lý nhà nước nhưng kinh nghiệm ấy vẫn chủ yếu mang tính chất cá nhân mà chưa phải là một cách nhìn có hệ thống và bài bản nhằm giải quyết một cách căn bản những vấn đề kinh tế, xã hội do thực tiễn đặt ra. Điều này đặc biệt đúng khi kinh nghiệm đó chưa được kiểm nghiệm qua thực tế, thông qua việc đánh giá kết quả thu được, lắng nghe ý kiến phản hồi từ người dân.
2.2 Các tiêu chuẩn về nội dung
- Nội dung:
Một là vấn đề điều chỉnh:
Xác định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật là việc người soạn thảo giới hạn sự tác động của văn bản lên các quan hệ xã hội và đối tượng tác động cụ thể. Ngay từ trước khi soạn thảo văn bản, người soạn thảo đã phải xác định rõ: văn bản được ban hành để điều chỉnh những loại quan hệ xã hội nào, tác động tới những đối tượng nào.
Trên cơ sở đó việc xác định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xác định tính chất quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Các quan hệ xã hội có thể được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau, dựa vào mức độ quan trọng và sự ổn định của chúng, từ đó xác định thẩm quyền ban hành văn bản để điều chỉnh sao cho hợp lý. Thông thường, các cơ quan có địa vị pháp lý cao trong bộ máy nhà nước chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng; những quan hệ xã hội ít quan trọng hơn thường được điều chỉnh bởi văn bản của cơ quan có địa vị pháp lý thấp hơn trong bộ máy nhà nước.
Thứ hai, xác định chủ thể tham gia quan hệ xã hội. Các bên tham gia quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật là các cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ được xác định trong văn bản. Do vậy, có thể coi đối tượng áp dụng của dự thảo là các cơ quan, tổ chức, cá nhân, thường bao gồm các nhóm đối tượng sau: Nhóm đối tượng có trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản, nhóm đối tượng có trách nhiệm thực hiện văn bản, nhóm đối tượng có liên quan (phối hợp, kiểm tra, giám sát ...). Do vậy, cần xác định rõ các quan hệ xã hội có thể hình thành giữa những cá nhân hay tổ chức nào để xác định đối tượng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật sao cho hợp lý, tránh tình trạng bỏ lọt các đối tượng có liên quan cần áp dụng văn bản. Ví dụ: có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia vào các quan hệ xã hội phát sinh từ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan quyền lực nhà nước...) Nếu chỉ xác định đối tượng áp dụng văn bản là công dân thì bỏ lọt các cá nhân khác không phải công dân; nếu chỉ là cơ quan hành chính nhà nước thì bỏ lọt các cơ quan khác của Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần tránh tình trạng xác định đối tượng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng quá rộng, bao gồm cả những chủ thể không thể tham gia vào các quan hệ xã hội đang dự kiến được điều chỉnh.
Thứ ba, xác định phạm vi lĩnh vực chuyên môn được áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Việc xác định đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản còn có thể được xác định trên cơ sở phạm vi lĩnh vực chuyên môn được áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Thông thường, mỗi văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng giới hạn trong những phạm vi chuyên môn nhất định. Cần xác định rõ giới hạn đó, trên cơ sở xem xét tính chất và nội dung các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Có những quy định về lĩnh vực chuyên môn như: về tuyển dụng cán bộ, công chức, về tiền lương... liên quan đến tất cả các ngành, nên văn bản quy phạm pháp luật quy định về những vấn đề này cần được áp dụng trong tất cả các ngành để bảo đảm sự thống nhất. Tuy nhiên, cũng có những quy định về các vấn đề mang tính đặc thù của một số lĩnh vực chuyên môn nhất định, nên chỉ áp dụng trong những lĩnh vực chuyên môn đó mà không thể áp dụng sang những lĩnh vực chuyên môn khác. Do đó, khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, người soạn thảo cần xác định rõ giới hạn lĩnh vực áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đó.
Trên cơ sở các vấn đề nói trên, người soạn thảo cần xác định rõ dự thảo văn bản điều chỉnh những vấn đề gì, áp dụng đối với những đối tượng nào, đã đầy đủ chưa trên cơ sở thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của từng chủ thể; dự thảo không được quy định mở rộng thêm hay bỏ lọt đối tượng, phạm vi điều chỉnh để văn bản sau khi được ban hành phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và tính khả thi trên thực tế.
Hai là về thể loại văn bản
Thể loại văn bản là tên gọi của từng loại văn bản, phù hợp với tính chất, nội dung và mục đích ban hành của văn bản.
Văn bản được ban hành đúng căn cứ pháp lý, tức là việc ban hành văn bản có căn cứ pháp lý và những căn cứ pháp lý đó đang có hiệu lực pháp luật vào thời điểm ban hành; cơ quan, thủ trưởng đơn vị trình dự thảo văn bản có thẩm quyền trình theo quy định của pháp luật; những đề nghị để ban hành văn bản là hợp pháp;
Văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, bao gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status