Hiện trạng pháp luật nước ta về thương mại dịch vụ phân phối và tác động của cam kết WTO của Việt Nam đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối - pdf 16

Download miễn phí Luận văn Hiện trạng pháp luật nước ta về thương mại dịch vụ phân phối và tác động của cam kết WTO của Việt Nam đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối



Trong giai đoạn nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và kế hoạch hóa, Nhà nước độc quyền thương mại quốc tế thông qua các doanh nghiệp Nhà nước của mình. Bắt đầu mở cửa hội nhập, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ bắt đầu có quyền xuất khẩu và quyền nhập khẩu khi xin được giấy phép xuất nhập khẩu (cho từng chuyến hàng) từ Bộ Thương mại theo quy định tại Nghị định số 114/HĐBT về quản lý xuất nhập khẩu ngày 7/4/1992 và sau đó là Nghị định số 33/CP ngày 19/4/1994. Tiếp đó, Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu từng chuyến hàng (do Bộ Thương mại cấp) đối với một số nhóm sản phẩm nhất định trước khi Luật Thương mại năm 1997 và Nghị định số 57/1998/NĐ – CP năm 1998 hướng dẫn Luật Thương mại năm 1997 về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý hàng hóa cho nước ngoài loại bỏ hoàn toàn thủ tục này bằng việc quy định xuất nhập khẩu hàng hóa chỉ dựa trên ngành nghề đăng ký kinh doanh của thương nhân. Hơn nữa, Nghị định 44/2001/NĐ – CP ngày 2/8/2001 sửa đổi bổ sung Nghị định 57/1998/NĐ – CP với khung hướng khuyến khích xuất khẩu, không chỉ quy định quyền xuất khẩu không phụ thuộc vào quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho thương nhân thuộc thành phần kinh tế trong nước và cả chi nhánh của thương nhân.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

xử tối huệ quốc, minh bạch hóa và các nghĩa vụ liên quan đến dịch vụ độc quyền.
b.         Đối xử quốc gia
            Việc cung cấp dịch vụ đại lý ủy quyền hoa hồng theo cách (1) – cung cấp qua biên giới, chưa cam kết, ngoại trừ biện pháp tương tự tiếp cận thị trường, nghĩa là Chính phủ Việt Nam duy trì quyền áp dụng các rào cản, hạn chế đối xử quốc gia đối với việc cung cấp dịch vụ từ một thương nhân nước ngoài vào thị trường trong nước nhằm bảo vệ các nhà cung cấp dịch vụ nội địa.
            Đối với cách (2) – tiêu dùng ở nước ngoài và cách (3) – hiện diện thương mại, không hạn chế, có nghĩa là Chính phủ Việt Nam cam kết áp dụng đầy đủ  nguyên tắc WTO, bao gồm cả nguyên tắc cơ bản và nguyên tắc đối xử quốc gia, theo đó, sẽ không có chính sách thương mại phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với cách (4) – hiện diện thể nhân, chưa cam kết, ngoại trừ những nguyên tắc chung, có nghĩa là Chính phủ Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng các rào cản ngăn cản các thể nhân (cá nhân) đến từ các quốc gia Thành viên cung cấp dịch vụ đại lý ủy quyền tại Việt Nam .
2.1.3. Tác động của các cam kết WTO và xu hướng của các quan hệ pháp luật về dịch vụ ủy quyền
            Có cam kết WTO, Chính phủ đã ban hành Nghị định 23/2007[14] đúng như cam kết. Là những hoạt động trung gian thương mại, do vậy, về kết cấu và bố cục, Nghị định 23/2007 thiết kế quyền tiến hành hoạt động “đại lý thương mại” và “ủy thác mua bán hàng hóa” là những quyền có liên quan của quyền năng chính “quyền kinh doanh mua bán hàng hóa” hay “quyền phân phối” (theo nghĩa hẹp, tức là chỉ áp dụng với hàng hóa hữu hình).
            Về bản chất, hành vi “đại lý ủy quyền hoa hồng” (như thuật ngữ của WTO) và hành vi “đại lý thương mại” hay “ủy thác mua bán hàng hóa” là những khái niệm tương đồng trong thương mại hàng hóa hữu hình. Chúng cùng mô tả hành vi trung gian thương mại và cùng đóng vai trò nhất định đối với hoạt động mua bán hàng hóa. Vì thế, “ủy thác mua bán hàng hóa” hoàn toàn có thể quay về  “đại lý thương mại”.
            Rõ ràng, nếu sự xuất hiện của “ủy thác mua bán hàng hóa” là một hiện tượng có nguồn gốc từ lịch sử, khi một bộ phận doanh nghiệp được Nhà nước giao nắm giữ vai trò độc quyền trong xuất nhập khẩu, dùng vai trò này của mình tiến hành các hoạt động trung gian thương mại để thu lợi thì nay, khi vai trò đó không còn, việc tiếp tục duy trì một chế định riêng cho ủy thác mua bán hàng hóa có vẻ sẽ như là một sự thừa thãi không cần thiết. Nhưng thực tiễn không phải vậy.
            Trên thực tế, hiện nay, ủy thác mua bán hàng hóa hiện tại gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu, còn khái niệm đại lý thương mại thường được hiểu dưới góc độ thương mại nội địa nhiều hơn, dù hoạt động đại lý thương mại quốc tế đã rất phát triển. Với ủy thác mua bán hàng hóa, với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ủy thác, chủ yếu là người nhận ủy thác xuất khẩu hay ủy thác nhập khẩu, nhưng vai trò và công việc của họ lại gắn liền với thủ tục giao nhận hàng hóa và khai báo hải quan. Tuy nhiên, vì pháp luật thương mại là tập quán và thói quen thương mại hình thành nên, do vậy, sự phát triển mở rộng theo nhiều chiều của đại lý thương mại cũng sẽ không ảnh hưởng đến thói quen sử dụng ủy thác mua bán hàng hóa trong xuất nhập khẩu cũng đồng thời là sử dụng dịch vụ và vốn ứng trước của bên nhận ủy thác. Vấn đề cần lưu tâm là quy định pháp luật về ủy thác mua bán hàng hóa chưa nhấn mạnh đến yếu tố dịch vụ do bên nhận ủy thác cung cấp. Thêm vào đó, hiện tại, đã có quan niệm xếp đại lý ủy quyền hưởng hoa hồng như là một hình thức của bán buôn. Cụ thể quan niệm đó như sau:
Hệ thống ngành kinh tế quốc gia quy định, ngành 46.10.1 (mã ngành kinh tế cấp 5) đại lý, là một phân nhóm con thuộc nhóm ngành 46 (mã ngành kinh tế cấp 2) bán buôn, bao gồm các hoạt động sau: [15]
Hoạt động đại lý bán hàng hưởng hoa hồng thực hiện theo ủy quyền hay nhân danh tài khoản giao dịch của bên ủy quyền hay giao đại lý về các loại hàng hóa:” nguyên liệu nông lâm sản thô, nhiêu liệu, hóa chất, phân bón, lương thực, hàng hóa, máy móc thiết bị công nghiệp, tàu thuyền và máy bay, hàng tiêu dùng,… và hoạt động của các nhà đấu giá bán buôn. (Đại lý theo) phân ngành 46.10.1 này loại trừ (hay không bao gồm) những hoạt động sau:
-           Bán buôn nhân danh tài khoản của mình theo phân nhóm 46.2: Bán buôn nông, lâm sản nguyên liệu (trừ gỗ, tre, nứa) và động vật sống đến phân nhóm 46.9:Bán buôn tổng hợp;
-           Hoạt động đại lý hưởng hoa hồng, môi giới, đấu giá đối với đến ô tô con loại 12 chỗ ngồi trở xuống, xe có động cơ khác, mô tô, xe máy và các phụ tùng và bộ phận phụ trợ của chúng;
-           Bán lẻ qua đại lý hưởng hoa hồng bên ngoài cửa hàng ;
-           Hoạt động của các đại lý bảo hiểm; Hoạt động của các đại lý bất động sản. [16]
            Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng việc phân loại và đánh số mã ngành theo cách đại lý là một phần của nhóm bán buôn như trong trường hợp này không xuất phát từ mối liên hệ bản chất pháp lý của hoạt động đại lý và bán buôn, như là các dịch vụ, vì rõ ràng, hay đại lý dịch vụ bảo hiểm, bất động sản lại được phân các mã ngành khác, tức là, yếu tố hàng đầu trong sự phân ngành của hệ thống này chính là sự thuận tiện. Hơn thế nữa, hệ thống mã ngành kinh tế đang thực hiện việc định nghĩa theo phương pháp liệt kê chi tiết, với cách thức thực hiện tương tự như Ban Thư ký WTO thực hiện trong định nghĩa về dịch vụ phân phối qua danh mục W/120 về phân loại dịch vụ.
2.2.    Thực trạng pháp luật nước ta về dịch vụ bán buôn và tác động của cam kết WTO của Việt Nam đối với sự điều chỉnh pháp luật về dịch vụ bán buôn
2.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ bán buôn trước khi gia nhập WTO
Thuật ngữ “bán buôn” được dùng trong các văn bản pháp luật của Việt Nam từ rất sớm, cụ thể, ngày 2/6/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã có quyết định số 228-CP về cải tiến hệ thống giá bán buôn. “Bán buôn”, ngay trong văn bản này, đã được sử dụng để ám chỉ việc bán, cung cấp hàng, dịch vụ có những yếu tố sau: (i) được thực hiện ở khâu đầu tiên sau khi sản xuất hay nhập khẩu; (ii) quy mô bán hàng, cung cấp dịch vụ ở số lượng lớn; và (iii) mức giá bán thấp hơn giá đến tay người tiêu dùng; 
Tuy vậy, với giai đoạn nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước nắm trọn quyền thương mại, các quy định về bán buôn trong giai đoạn này tập trung trong chính sách điều hành về giá bán. Việc xây dựng khung pháp lý và một cơ sở để hình thành hệ thống bán buôn chỉ bắt đầu từ giai đoạn “Đổi mới” với Quyết định số 318 – CT của Chủ tịch Hôi đồng Bộ Trưởng ngày 23/...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status