Nội dung tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong Phụ đạo xán nhiên - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Nội dung tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong Phụ đạo xán nhiên



 
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận.
6. Ý nghĩa nghiên cứu
7. Kết cấu của niên luận
CHƯƠNG 1. HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỉ XVIII
1.2.Cuộc đời và sự nghiệp
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC TRONG TÁC PHẨM
"PHỤ ĐẠO XÁN NHIÊN"
2.1. Quan niệm về thế giới quan và phương pháp luận
2.2. Quan niệm về nhân sinh
Kết luận chương 2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

1770, các cuộc khởi nghĩa nông dân hầu như đã bị dập tắt, nhưng hơn 30 năm phát triển rầm rộ của các phong trào đã làm rung chuyển cả Đàng Ngoài. Cơ đồ thống trị của tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh lung lay đến tận gốc. Những điều chỉnh nhất thời trong chính sách cai trị của chính quyền phong kiến cũng đã không thể cứu vãn nổi tình hình.
Ở Đàng Trong, sau một thời gian phát triển mạnh mẽ, từ thế kỉ XVIII cũng lâm vào khủng hoảng sâu sắc và trầm trọng. Hai nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Đàng Trong là kinh tế hàng hoá và nông nghiệp hàng hoá và ngoại thương thời kì này có chiều hướng sa sút nghiêm trọng. Lúc này tàu buôn phương Tây hầu như không đến nữa, tàu buôn nước ngoài tham gia vào hoạt động ngoại thương ở Đàng Trong chủ yếu chỉ còn các thương nhân Hoa kiều. Trong nông nghiệp, ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều. Các ngành thủ công nghiệp, khai thác lâm sản cũng sa sút nghiêm trọng. Kinh tế suy thoái đã kéo theo sự suy đồi về chính trị , những mâu thuẫn trong xã hội trở nên gay gắt. Phong trào nông dân nổ ra và phát triển nhanh chóng mà tiêu biểu là phong trào Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Đây là hệ quả tất yếu của những biến đổi trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Đó là mâu thuẫn giữa những người nông dân và chính quyền phong kiến, đây là mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội nước ta thời kì này. Bên cạnh đó còn là mâu thuẫn trong nội bộ của giai cấp phong kiến giữa vua Lê-chúa Trịnh, giữa tập đoàn phong kiến họ Trịnh ở Đàng Ngoài và tập đoàn họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Trải qua nhiều biến động, Nho giáo vẫn là công cụ chính của các tập đoàn phong kiến sử dụng để xây dựng chính quyền và củng cố trật tự xã hội. Giáo dục vẫn lấy nội dung trong Tứ thư, Ngũ kinh. Các tập đoàn phong kiến đều ra sức tổ chức các kỳ thi, tăng cường số lượng tầng lớp sĩ phu. Tính đến khoa thi cuối cùng năm 1787, triều Lê trung hưng đã tổ chức được 68 kỳ thi Đình, chọn được 717 tiến sĩ. Ngoài ra triều Lê còn tổ chức bổ sung các khoa chế khoa, thịnh khoa, khoa sĩ vọng để lấy thêm các tiến sĩ không theo con đường thi cử chính quy. Trong các kỳ thi ấy xuất hiện không ít những người tài giỏi có tâm huyết với đất nước. Tuy nhiên khi thiết chế nhà nước trở nên rệu rã, kỷ cương phép nước bị buông lỏng, tư tưởng thực dụng len lỏi vào mọi quan hệ xã hội, việc học hành thi cử ngày càng bộc lộ những mặt hạn chế và tiêu cực. Nội dung thi cử khuôn sáo , hiện tượng gian lận thi cử, hối lộ tràn lan đến nỗi''sinh đồ 3 quan đầy cả thiên hạ". Nhận xét về tình trạng thi cử thời kì này, nhà sử học Phan Huy Chú viết:"... Các quan trường ra đề dùng Tứ thư, Sử, Tứ lục, độ hơn 10 bài; phú độ hơn 5, 3 bài. Đầu đề đặt sẵn, không có thay đổi gọi là Sử thư. Bọn học giả nhiều người làm bài sẵn đem bán. Học trò đi thi tíu tít hỏi mua lấy những bài ấy học thuộc lòng, hay dấu đem vào trường cứ thế mà viết..." Theo Hoàng Thu Hương(2000), Tìm hiểu triết lí nhân sinh của Hải Thượng Lãn Ông trong sự nghiệp Đông y Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân, Khoa Triết học, Hà Nội, tr.7
. Tính cách thanh cao của nho sĩ bị thói mưu lợi cầu danh lấn át, "người đỗ hương cống mà chưa thông nghĩa lý câu văn, vừa đỗ xong đã ngấp nghé làm quan" là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ. Như thế kỉ XV, nho sĩ vẫn là những người trí thức, những nhà tư tưởng đương thời của xã hội. Nhưng khác với tầng lớp họ ở các thế kỉ trước, các nhà nho thế kỉ XVIII phải đối diện với một đất nước triền miên trong loạn lạc, trong cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, trong sự chia cắt của non sông và thể chế chính trị. Chính vì thế trong tầng lớp nho sĩ cũng có sự phân hoá sâu sắc theo hai hướng chủ yếu là xử và xuất. Xử là chủ trương xuất thế ra làm quan, còn xuất là học ra làm quan nhưng bất mãn với thời cuộc nên lui về ở ẩn. Nhưng ngay trong mỗi xu hướng cũng có sự phân hoá rất khác nhau. Trong xu hướng thứ nhất, các nhà nho đã vận dụng những giáo lý Nho giáo xoay quanh những phạm trù đạo đức và tiêu chuẩn đánh giá con người không giống nhau, đặc biệt là trong quan niệm về chữ"trung". Chữ"trung" truyền thống theo đúng giáo lý của đạo nho nghĩa là chỉ trung với một con người, một dòng họ như"... Trần Danh Án thì nguyện trung với vua như"hoa quỳ khô vẫn hướng về mặt trời", "dù chết vẫn giữ cương thường" (Liễu An tản ông thi tập) và Nguyễn Hành"ăn lộc chết vì vua...nguyện đến tuổi già vẫn giữ gìn khí tiết..." (Minh Quyên thi tập)" Theo Hoàng Thu Hương, Sđd, tr.9
. Trong khi đó thì có những người có quan điểm thức thời tiến bộ, hiểu về trung nghĩa với lý tưởng cứu dân cứu nước. Trung là trung với đấng minh quân, họ không do dự hợp tácvới nhà Tây Sơn, phò tá Nguyễn Huệ vì nghĩa lớn tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan... Trong khuynh hướng thứ hai, các nhà nho tuy về ở ẩn song thực chất con đường đi của họ cũng không giống nhau. Một bộ phận tìm đến sự dung thông giữa triết lý Nho giáo với các tư tưởng triết học, tôn giáo khác như Nho-Lão Trang trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nho-Đạo giáo trong các tác phẩm của Nguyễn Dữ...Một hướng khác là tuy lánh đời nhưng vẫn tích cực xuất thế làm việc giúp đời như bốc thuốc, dạy học mà tiêu biểu cho khuynh hướng này là Lê Hữu Trác.
1.2.Cuộc đời và sự nghiệp
Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý(tức ngày 11 tháng 12 năm 1720). Nguyên quán ở thôn Văn Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương(nay là xã Liêu Xá, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên). Quê mẹ ở xứ Bầu Thượng, xã Tình Diệm(nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).
Hiệu"Hải Thượng" của ông ghép từ chữ"Hải" của tên tỉnh Hải Dương và chữ "Thượng" của tên phủ Thượng Hồng, bạn của xứ Bàu Thượng. Tên"Lãn Ông" có nghĩa là ông già lười, người không ham danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ônh nội là Lê Hữu Mưu đậu Nhị giáp Tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư dưới triều Lê Dụ Tông, được tặng phong tước Bá. Bác là Lê Hữu Hỷ, làm giám sát ngự sử, cũng tước Bá. Chú là tiến sĩ Lê Hữu Kiều, làm Thượng thư Bộ Lễ, tước Quận công. Cha là Lê Hưu Mưu, đỗ Tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang bộ Công, gia phong chức Ngự sử, tước Bá. Mẹ là Bùi Thị Thường, con gái tướng công Bùi Đăng Diệm. Anh trai của ông là Lê Hữu Kiển và em con chú là Lê Hữu Dung cũng đều đậu tiến sĩ và làm quan trong trong triều.
Ông là con thứ bảy trong gia đình, được theo cha lên kinh thành Thăng Long học. Hồi nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, hiểu rộng, thơ hay.
Năm ông 20 tuổi(tức năm Kỷ Mùi-1739) không may cha ông qua đời, ông tiếp tục đọc sách, đi thi Tam trường nhưng không đỗ. Sau đó, ông không đi thi thêm một lần nào nữa. Ông học binh thư, luyện võ và vào quân đội chúa Trịnh năm 1740. Thuộc dòng dõi trâm anh nên ông được cử làm tướng, ông cầm quân thường thắng trận. Thống soái của chúa Trịnh nể tài ông, bao phen tiến cử nhưng chán ghét cả...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status