Tục trầu - Cau - pdf 16

Download miễn phí Đề tài Tục trầu - Cau



MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 0
I. NGUỒN GỐC TỤC LỆ ĂN TRẦU 1
II. TRỒNG TRẦU CAU 4
III. TRẦU CAU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT 6
1. Cách ăn trầu của người Việt 6
1.1. Cấu tạo miếng trầu 6
1.2. Bổ cau 7
2. Văn hoá người Việt được thể hiện qua cách ăn trầu 10
3. Cau trầu trong một số nghi lễ 11
3.1. Miếng trầu cúng mụ 11
3.2. Trong nghi lễ hôn nhân 12
4. Trầu cau trong giao tế xã hội 14
1.1. Mời trầu tiếp khách 14
4.2. Trầu cau là món quà biếu thông dụng 16
4.3. Mời trầu là cách ngỏ tình yêu giữa nam và nữ 17
IV. HÌNH TƯỢNG TRẦU - CAU - VÔI TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN, DÂN CA, CA DAO 17
1. Truyện trầu - cau - vôi của người Việt 17
2. Mời trầu trong sinh hoạt dân ca 19
3. Hình tượng trầu - cau trong thơ da dân gian 21
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng diện tích hàng trăm câu số vuông. Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu át:
Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh”.
Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau bên cạnh bang cừa và văng vẳng đâu đây câu hát:
“Bồng em mà bỏ vô nôi.
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mau cau Bát Nhị, mua trầu Hội An”.
III. TRẦU CAU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT
1. Cách ăn trầu của người Việt
1.1. Cấu tạo miếng trầu
Cho đến cách mạng tháng Tám, tục ăn trầu vẫn còn phổ biến ởnong thôn và thành thị. Thành phần mỗi một miếng trầu thường có: là trầu có quệt vôi, một miếng cau, một miếng vỏ chay. Nếu không co vỏ chay người ta chỉ ăn trầu quệt vôi với cau tươi hay cau khô. Không phải ngay từ đầu người Việt đã ăn trầu có cả vỏ chay. Nghiên cứu so ánh truyện Trầu - Cau - vôi của người Việt và truyện Bơ-lô Đu-lơ của người Ca-tu (Tây Nguyên)chúng ta có thể nêu lên một giả thuyết có ý nghĩa về thành phần miếng trầu của người Việt. Các dị bản về truyện Trầu - cau - vôi của người Việt đều thống nhất một chi tiết: ba nhân vật tượng trưng cho ba yếu tố: cau trầu, vôi; và từ thời xưa vua Hùng người Việt ăn trầu quệt vôi với cau. Sách Quế hải ngu hành chí cho biết thêm: “Người Việt thích ăn trầu, ding bạc và thiếc làm các hộp nhỏ, một cái đựng vôi, cái đựng dây hay lá trầu; và một cái đựng cau. Theo truyện Bơ-lô Đu-lơ của người Ca-tu thì từ xa xưa miếng trầu của người Ca-tu đã gồm có:cau, trầu, vôi, vỏ chay. So sánh truyện của hai dân tộc ta có thể nghĩ rằng cách ăn trầu kèm thêm vỏ chay của người Việt bắt nguồn từ ảnh hưởng qua lại giữa người Việt và cư dân Môn - Khơme cổ đại. Cho đến nay, theo đồng bào nghiện trầu, ăn trầu thiếu vỏ chay vị đậm kém đi nhiều lắm. Nếu không có vỏ chay, người ta tìm một thứ rễ cây khác để thay thế, đó là rễ cây quạch, ăn riêng thì có vị chát nhưng ăn cùng với trầu quệt vôi và cau thì miếng trầu đậm đàthêm lên và màu đỏ cốt trầu cũng thắm hơn. Câu tục ngữ “trầu không rễ như rể nằm nhà ngoài” chính nhằm khẳng định vị ngon đậm của miếng trầu có thêm rễ cây quạch hay voe chay, chứng tò người Việt dã tự giác làm tăng vị đạm cho miếng trầu trong quá trình giao lưuvh với các dân tộc khác.
1.2. Bổ cau
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm 6 mời anh xơi trầu.
Quả cau to có thểbổ làm 6miếng, mỗi khẩu trầu ding 1/6 quả cau, quảnhỏ hơn, bổ tư. Ở Nam bộ, quả cau to người ta thường bổ làm 8 miêng, quả cau được dóc vỏ xanh, tiện bỏ chũm rồi mới bổ ra thành miếng. Dao bổ cau phỉ chọn dao sắc miếng cau mới đẹp do đó ngôn ngữ Việt có từ “dao cau” để chỉdao sắc và lion dó là sự hình thành mỹ từ pháp “mắt sắc như dao cau”.
Mùa cau là mùa nắng hanh, người Việt phơi cau để dành ding quanh năm. Quả cau cũng được bổ thành miếng đem phơi. Trong lúc phơi phải biết dĩư cho hạt khỏi long. Miếng cau có đẹp là miếng cau còn nguyên hạt không bị long ra khỏi miếng cau, gọi là cau đậu. Cau đậu là loại cau quí, vì khi miếng cau đã khô hạt dễ long, muốn có cau đâu lúc phơi cau cần công phu.
Cắt vỏ chay hay rễ quạch. Vỏ chay được cắt thành miếng mỏng hình vồ hay hình chữ nhật, khi ding mới đem cây vỏ ra cắt để miếng vỏ khỏi khô.
Nhiều loại công cụ được tạo nên gắn liền với tục ăn trầu.
-Âu đồng hình tròn có nắp đậy kín ding đựng lá trầu chưa têm, để giữ cho lá trầu được tươi lâu. Đồng có khi được thay bằng thiếc.
Bình vôi và chìa vôi là loại công cụ phổ biến của mọi gia đình. Bình đựng vôi đã tôi, chia vôi cắm ngay trong bình, dài như chiếc đũa, một đầu nhọn, vừa để quệt vôi vừa để têm trầu, ởnong thôn, con dao vôi ding để rọc lá trầu, và quệt vôi têm trầu là công cụ thông dụng (hình)
Bình vôi cũng ding để đựng vôi đã tôi. Ống vôi nhỏ có thể bỏ túi, dặt trên cơi, mang đi mang lại thuận tiện, không như bình vôi để cố định một nơi. Thường thường, ống vôi được làm bằng thiếc. Nhà giầu xưa kia ding ống vôi bạc chạm trổ tinh vi.
Khăn trầu, túi trầu là những đồ dùng phổ biến của đồng bào ở nông thôn từ xưa cho đến Cách mạng tháng Tám, dùng để đựng những miếng trầu đã têm, những miếng cau, miếng vỏ, ống vôi. Trong nhân dân lao động, những đồ dùng này được may bằng vải hay lụa theo kiểu giản dị. Khăn trầu, túi trầu củấcc cô gái được giữ gìn cẩn then. Đối với tầng lớp quí tộc, khăn trầu thường bằng lụa, nhiễu quí, túi trầu bằng gốm, đoạn là những hàng hiếm, đắt tiền.
Tráp trầu, cơi trầu, hộp đựng trầu bằng gỗ được làm ra từ lâu đời. Nghề khảm phát triển, những tráp trầu, hộp trầu khảm gắn xà cừ do bàn tay khéo léo của những người thợ cả tạo nên tiêu biểu cho trình độ tinh xảo của nghề thủ công dân gian. Những tráp trầu, hộp trầu sơn mài là sản phẩm độc đáo và quí hơn.
Người Việt đã tổ chức chu đáo việc ăn trầu, gắn lion với tục ăn trầu, một nếp sống văn hoá cao và một trình độ them mỹ tinh tế hình thành dâbf qya các thời kỳ lịch sử.
Tục ăn trầu của người Hà Nội.
Người Hà Nội vốn nổi tiếng sành ăn, sành mặc, Hà Nội là nơi chắt lọc những tinh hoa, nét đẹp của mọi miền để tạo nên nét đẹp cho riêng mình. Nét đẹp của Hà Nội thể hiện ngay cả trong tục dùng trầu - một phong tục mà theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dung nước (qua sự tích Trầu cau mà người Việt Nam hầu như ai cũng biết.
Trước kia, người Hà Nội từ 13 tuổi trở lên là biết ăn trầu. Theo sứ giả nhà Nguyễn vào đời Trần, ở Thăng Long, 61 phố phường đều trồng rất nhiều cau và trầu không. Người Hà Nội trước đây có dâu:
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Cầu, chợ Quán là các chợ lẻ, chợ phụ dọc đường, Nam phố là tên cũ của phố Hàng Bè bây giờ, nơi xưa bán rất nhiều cau tươi, cau khô. Chợ Dinh gần dinh quan phủ Phụng thiên (quãng phố Phủ Doãn và ngõ Huyện bây giờ). Ngày nay, người Hà Nội ít ăn trầu hơn trước nên không còn những phố bán trầu mà tập trung phần lớn ở những chợ một số ít được đem bán rong. Người Hà Nội rất công phu trong cách chọn trầu. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt (nửa màu nửa hạt). Người sành ăn thường kén mua cau Đông ở tỉnh Hải Hưng (cũ) . Từ tháng 8 có thêm cau miền Nam nhưng người ta ít ăn vì loại cau này nhiều hạt không ngon. Mua tràu phải chọn lá hơi ánh vàng, nhỏ, dày, tươi. Ngày tứơc có trầu không làng Chả ngon nổi tiếng vì lá nhỏ, vừa thơm vừa cay, để có được lá trầu như vậy, người làng Chả ngày đó trồng cuãng rất công phu, dàn trầu không phải được trồng trên đất trồng gong. Ngày nay người Hà Nội ăn trầu Hưng Yên, vào dịp lễ hỏi người ta mua trầu Tây Sơn vì lá to đẹp. Người ăn sành trầu chọn vôi xứ Đàoi - Sơn Tây.
Bộ đồ ăn trầu của người Hà Nội gồm có: cơi đựng tr
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status