Sơ lược 3 dân tộc : Kháng, Mảng, Xinh Mun - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Sơ lược 3 dân tộc : Kháng, Mảng, Xinh Mun



 
MỤC LỤC
 
MỞ ĐẦU 0
I. KHÁNG 0
II. MẢNG 6
III. XINH - MUN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

h tác chủ yếu bằng con dao, chiếc rùi sắt, gậy chọc lỗ, và đôi nơi dùng cuốc hay cày. Đặc biệt cuốc là sử dụng của người Thái làm nương cuốc, sửdụng cày Hơmông, học kĩ thuật cày bừa và cách canh tác lúa nước của người Thái. Nhờ vậy đã kéo dài thời gian sử dụng đất, tạo ra năng suất lao động cao hơn và có cuộc sống định cư [3].
* Chăn nuôi: Người Kháng nuôi gà, vịt, lợn để ăn thịt, tiếp khách, kết hợp các dịp cúng bái, sử dụng trong cưới xin, ma chay. Đàn gia súc của đồng bào có trâu, bò, ngựa… phục vụ cho sản xuất và vận tải [4].
* Săn bắn và hái lượm: Do chuyên sống bằng nương rẫy du canh du cư nên đời sống đồng bào rất thấp. Săn bắn hái lượm là cộng việc hàng ngày của đồng bào đóng vai trò hết sức quan trọng. Đi làm nương trở về đồng bào luôn mang được thứ gì đó về góp vào bữa ăn. Săn bắn kết hợp với việc bảo vệ mùa màng và kiếm thịt ăn để cải thiện đời sống. Đồng bào săn bắn theo 2 cách: săn cá nhân và săn tập thể. Vũ khí săn bắn gồm có các loại : Bẫy, nỏ, súng và tên thuốc độc. Đồng bào sử dụng các loại bầy khác nhau : bẫy phóng lao, bẫy sập dùng mồi, hãm chông, lưới vây…
* Ngành nghề phụ: Để bù đắp vào phần thức ăn thiếu thốn đồng bào sống dựa vào những thứ hái lượm đưcợ trong rừng. Đó là các loại cây có củ như : củ mài, củ nâu, bột báng, các loại rau rừng như măng, nấm… để đổi lấy lúa gạo, quần áo vải mặc… hay tìm bắt ếch, nhái, tôm cua ở khe suối.
Người Kháng giỏi nghề làm thuyền độc mộc đùa én. Làm thuyền để dùng, vừa bán cho người Thái và các dân tộc khác. Đan lát cũng là một nghề khá nổi tiếng của đồng bào có thể đan được những chiếc màm, chiếc ghế bằng mây, tre, nứa rất đẹp được nhiều người ưa thích.
Người Kháng biết làm ruộng, dệt vải, đan chiếu, làm nón như người Thái nên mức sinh hoạt tương đối cao hơn các ngành thuộc ngành Xá khác…
Văn hoá, giáo dục.
* Chữ viết: Trong lịch sử, dân tộc Kháng chưa có chữ viết.
* Giáo dục: Từ lâu, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục bằng cách đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, cử các cán bộ giáo viên tình nguyện với mức trợ cấp lớn đã đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức và đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở các cấp. Biểu hiện rất rõ về mặt này ở nhiều chủ trương, đường lối với những chính sách ưu tiên như cộng thêm điểm vào kết quả thi tuyển sinh, mở các trường nội trú, các trường dựbị đại học nhằm mục đích tạo ra đội ngũ cán bộ tương đối toàn diện đáp ứng sự nghiệp phát triển của các dân tộc và miền núi. Tuy vậy sự nghiệp giáo dục ở dân tộc Kháng phát triển còn chậm, trẻ em ít đi học. Dân tộc Kháng mới có 5 người có trình độ Đại học [4]
* Văn học nghệ thuật:
“Văn hoá dân gian của người Kháng khá phong phú, phản ánh đời sống văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng trọt vùng núi với điều kiện hết sức khó khăn [1].
Xã hội:
* Quan hệ xã hội: Nằm trong sự quản lí của các mường Thái trước đây, người Kháng không có tổ chức xã hội riêng. Chức dịch cao nhất trong bản là : quan cai gần như Tạo bản người Thái. Trong các bản người Kháng đã có sự phân hoá giàu nghèo.
Tiểu gia đình phụ quyền chiếm ưu thế trong bản. Bên cạnh đó cũng tồn tại một số tàn dư của chế độ mẫu hệ : tục ở rể, vai trò ông cậu… Trưởng họ vẫn có vai trò nhất định. Theo tập quán sau khi cưới chàng rể phải đến nhà bố vợ ở rể có thời hạn. Thông thường từ 1 đến 3 năm. Trong thời gian ở rể con sinh ra lấy họ mẹ, chỉ sau khi đến nhà chồng con cái mới lấy họ cha, có nơi vẫn lấy họ mẹ. Hết thời hạn ở rể, nhà trai tổ chức lễ đón dâu trở về nhà, lúc này họ nhà gái phải có trách nhiệm sắm cho con gái và con rể cùng cháu ngoại đủ mọi thứ cần thiết cho một gia đình riêng.
* Cưới xin: Ngày xưa, việc lấy vợ, lấy chồng của người Kháng vừa tự do vừa phải qua nhiều nghi thức. Sau bốn năm đêm tìm hiểu ngủ lại nhà người con gái, nếu đôi trai gái ưng ý nhau thì tiến hành ăn hỏi và rất nhiều nghi thức mà đôi trẻ và hai bên nhà trai nhà gái phải thực hiện. Sau 3 năm ở rể đôi vợ chồng trẻ phải làm lễ ra mắt hai họ, nhà trai mới tổ chức đón dâu. Đây là lễ quan trọng nhất.
* Ma chay: Người Kháng có tục chia của cho người chết gồm : chăn, đệm, dao, bát, đĩa, hòm đựng quần áo, ống nước, giỏ xôi… và những gì khi còn sống người quá cố thường dùng. Tất cả những lễ vật này được đặt phía trên đầu mộ. Ở phía đầu mộ còn chôn một cái cột cao, trên đó buộc treo một hình con chim bằng gỗ và một cái áo mà người chết thường mặc. Sau khi chôn xong về đến nhà, anh em, bà con phải đứng dưới gầm sàn để ông cậu cắt mỗi người một nhúm tóc bỏ vào bát nước lã đựng trứng hay cá sấy khô rồi đem vứt ở vệ đường vào bãi tha ma để hồn người chết không về quấy rối con cháu, người thân.
* Thờ cúng: Họ tin rằng con người có 5 hôn. Một hồn chính ở trên đầu và 4 hồn ở tứ chi. Khi chết, hồn chính biến thành ma lành phù hộ con cháu còn 4 hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu vòi “ăn”. Người ta còn tin nhiều loại ma khác như: ma suối, ma bản… Người Kháng thờ ma cả bố và cả mẹ. Việc cúng bố mẹ được tiến hành 3 năm một lần. Đây là lễ vui nhất, gia đình thường mời anh em, bà con trong bản tới dự bữa cơm, sau đó xoà, múa thâu đêm.
* Lễ tết: Người Kháng ăn Tết Nguyên đán, Tết Cơm mới và thực hiện các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nương rẫy.
* Văn nghệ: Những làn điệu dân ca của người Kháng thường phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nhiều người biết hát các bài hát, áng thơ của người Thái, thuộc nhiều tục ngữ ca dao.[3]
Sinh hoạt .
*Ăn uống, hút: Người Kháng lấy nguồn thức ăn từ trồng trọt, chăn nuôi và săn bắn. Lương thực chính là gạo tẻ và gạo nếp. Đặc biệt đồng bào Kháng ăn cơm nếp nhiều hơn cơm tẻ. Xôi không không chỉ có mặt trong bữa ăn hàng ngày mà còn là lễ vật bắt buộc trong cúng lễ.
Đồng bào hay ăn các món nướng, luộc và rất thích ăn cay, ớt là thứ thức ăn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày. Họ cững thích ăn chua như măng, rau rừng muối chua, kể cả thịt cũng được đem muối chua để dự trữ. Trong đám cưới người Kháng nhà trai buộc phải đưa sang nhà gái 8 hay 12 ống cá chua. Các món tiết canh, thịt lợn băm nhỏ trộn lẫn gia vị và ăn tái cũng được ưa thích. Đồng bào nhuộm vàng, ăn trầu, hút thuốc lá, ăn đất nướng, uống rượu cần, rượu chưng cất. Đặc biệt người Kháng có tục uống nước bằng mũi mà chỉ đàn ông mới theo. Sau những buổi lao động mệt nhọc, nếu bữa ăn có thịt, cá, nấm, măng, đồng bào thường giã muối, ớt, hành, tỏi, rau thơm rồi hoà với nước (tránh không bỏ gừng) sau đó gạn lấy nước bỏ vào vỏ bầu rồi vừa ăn thịt vừa nghiêng cái vỏ bầu đổ nước cay vào mũi. Họ cho rằng làm như vậy sẽ khỏi bị mệt mỏi sau buổi lao động. Tục này phổ biến trước cách mạng sau chỉ thấy ở người già.
* Y phục và trang sức:
Đồng bào Kháng có trang phục y như của người Thái. Nam giới ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status