Tục "háy pù" (kéo vợ) của người Hmông - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Tục "háy pù" (kéo vợ) của người Hmông



MỤC LỤC
 
Nội dung trang
Lời mở đầu 3
Chương 1: Đôi nét về người Hmông ở Việt Nam 5
1.1. Lịch sử tộc người 5
1.2. Tộc danh và các nhóm điạ phương 6
1.3. Địa bàn cư trú 7
1.4. Ngôn ngữ chữ viết 8
1.5. Đời sống vật chất 8
1.6. Đời sống tín ngưỡng, tâm linh 9
Chương 2: Tục “Háy pù” (kéo vợ) của người Hmông 11
2.1. Nguồn gốc tục “háy pù” 11
2.2. Diễn biến của việc “háy pù” 12
2.3. Ý nghĩa của tục “háy pù” 16
Chương 3: Những tồn tại của tục “háy pù” (kéo vợ) 19
Kết luận 21
Phụ lục 22
Tài liệu tham khảo 25
 
 
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ốc khoảng 2500 TCN.
Hầu hết các chuyên gia nghiên cứu về người Hmông trên thế giới đều cho rằng cách đây trên 3000 năm người Hmông đã từng sinh sống ở lưu vực sông Hoàng Hà và là 1 trong những chủ nhân của nhà nước Tam Miêu. Họ có nền văn hóa phát triển khá rực rỡ với nền văn minh lúa nước, có chữ viết và nhà nước riêng cuả mình. Sự bành trướng của người Hán từ vùng Trung Nguyên xuống phương Nam đã khiến dân tộc này bị mất tổ quốc, đẩy tộc người phải xa rời quê hương di cư dần về phía Nam, để tránh các cuộc tàn sát liên tục của người Hán.
Khi nhà Mãn Thanh thống trị Trung Quốc chế độ “Thổ quan” được thay thế bằng “Lưu quan”, người Hmông không chấp nhận đã liên tục nổi dậy chống lại triều đình Mãn Thanh. Nhưng kết cục bi thảm của cuộc khởi nghĩa càng đẩy người Hmông vào cảnh tha hương li tán. Một bộ phận người Hmông tiếp tục di cư về vùng Vân Nam và cuối cùng là vùng núi miền Bắc Việt Nam, Lào, Myanmar và Đông Bắc Thái Lan, sống rải rác thành các nhóm nhỏ ở các vùng núi cao thuộc biên giới của 5 nước này.
Lại có ý kiến khác cho rằng người Hmông là 1 trong những tộc người nằm trong khối Bách Việt có chung gốc gác với người Dao thuộc ngữ hệ Nam Á nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao. Đến thế kỉ VIII 2 tộc người Hmông, Dao mới tách ra . Từ thế kỉ IX – XV người Hmông di cư về phía Tây Nam, tập trung ở Quý Châu (Trung Hoa), sau đó 1 bộ phận mới di cư vào Việt Nam.
Theo điều tra của các nhà dân tộc học người Hmông là có mặt sớm nhất ở Việt Nam cách đây hơn 300 năm. Người Hmông di cư từ phía Bắc vào Việt Nam khá muộn so với các dân tộc khác. Họ đến bằng nhiều đợt với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Hầu hết người Hmông ở nước ta đều có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu (Vân Nam, Trung Quốc) do 3 đợt thiên di lớn của tổ tiên họ vào Việt Nam.
Có thể nói lịch sử của người Hmông là lịch sử của những cuộc thiên di trải dài suốt hàng ngàn năm với đầy máu và nước mắt, nhằm tránh sự tàn sát truy đuổi tiêu diệt của kẻ thù, vừa kiên cường đấu tranh bảo vệ sự sống còn của mình..
Tộc danh và các nhóm địa phương
Khi di cư vào Việt Nam họ vẫn mang theo tên gọi vốn có của mình. Hầu hết học là 1 bộ phận tách ra từ nhóm Mèo dùng phương ngữ Hmông.
Trước tháng 3/1979 dân tộc Hmông ở Việt Nam được mọi người biết đến với tộc danh là người Mèo. Lịch sử có ghi chép người Mèo là 1 dân tộc sớm biết trồng lúa nước, người Hán căn cứ vào nghề trồng trọt của người Mèo mà gọi họ là Miêu Tử.
Mèo là cách gọi trực tiếp theo phiên âm của người Hán. Miêu là cách gọi theo phiên âm Hán – Việt.
Dựa trên sự khác nhau về trang phục và ngôn ngữ, có sự phân biệt thành các nhóm địa phương. Việt Nam hiện có khoảng hơn 800.000 người Hmông đang sinh sống, là nơi duy nhất có đầy đủ 4 nhóm Hmông sinh sống ở khu vực Đông Nam Á:
Hmông Trắng
Hmông Đen
Hmông Hoa
Hmông Xanh
Na Miẻo
Địa bàn cư trú của người Hmông
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc là cư dân tới sau nên họ cư trú chủ yếu trên các triền núi có dộ dốc cao từ 800m trở lên so với mặt nước biển. Người Hmông quần cư trên 1 địa bàn độc lập hầu như không có sự đan xen về tộc người, với tình tạng phân tán tương đối.
Dựa trên nhiều yếu tố có thể phân địa vực cư trú của người Hmông thành 2 vùng lớn: 1 là vùng biên giới Việt – Trung tính từ phía Bắc tỉnh Cao Bằng tới phía Bắc tỉnh Lai Châu. Vùng thứ 2 là dải ven biên giới Việt – Lào kéo dài từ phía Tây tỉnh Lào Cai đến phía Tây tỉnh Nghệ An.
Họ cư trú chủ yếu trên vùng núi cao của các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hòa Bình, Thái Nguyên, Bác Kạn, Thanh Hóa, Nghệ An. Về tổng thể:
Người Hmông Trắng cư trú tập trung ở cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), 1 phần các huyện Bắc Hà, Mường Khương (Lào Cai), Trạm Tấu (Yên Bái), Thuận Châu, Yên Châu (Sơn La), và tỉnh Cao Bằng.
Nguời Hmông Hoa sống chủ yếu ở Mù Cang Chải (Yên Bái), 1 số huyện ở Lào Cai, Hà Giang, Sơn La , Lai Châu.
Người Hmông Đen sống tập trung ở Phong Thổ, Tủa Chùa (Lai Châu).
Người Hmông Xanh chỉ có 1 ít cư trú tại Tủa Chùa (Lai Châu), Văn Bàn (Lào Cai).
Truy nhiên sự phân bố này chỉ là tương đối vì ngay trong đại bàn cư trú của họ cũng không có sự phân biệt ranh giới về nhóm và các nhóm Hmông thường sống xen kẽ trong vùng đôi khi trong 1 làng có vài ba nhóm Hmông cùng sinh sống
Ngôn ngữ và chữ viết
Ngôn ngữ Hmông thuộc nhóm Hmông – Dao trong ngữ hệ Nam Á. Người Hmông không có chữ viết riêng. Trước đây người Pháp đã nghiên cứu xây dựng bộ chữ Hmông để truyền đạo Thiên chúa vào vùng Hmông. Sau 1954 nhà nước đã nghiên cứu xây dựng bộ chữ Hmông theo chữ cái Latinh và đã tổ chức phổ biến, truyền dạy rộng rãi trong đồng bào.
Đời sống vật chất
Ăn uống:
Ăn uống của người Hmông dựa vào lương thực thực phẩm từ trồng trọt chăn nuôi khai thác các sản vậy từ trong tự nhiên (qua hoạt động săn bắn, hái lượm).
Đồng bào Hmông ăn 2 bữa trong ngày: trưa và tối, vào ngày mùa ăn 3 bữa. Thường ngày họ ăn cơm tẻ theo cách đồ trong chõ gỗ, gạo nếp thì để đồ xôi hay giã làm bánh dầy ăn trong các dịp lễ tết. Đa số các món ăn chủ yếu được chế biến theo cách luộc hay xào. Bữa ăn hàng ngày có cơm và canh rau. Vào những ngày chợ phiên thường thấy người Hmông nấu món “thắng cố” (canh chảo) nấu bằng thịt ngựa, bò.
Người Hmông thích uống rượu chủ yếu là rượu ngô tự tay họ chưng cất, khi uống dùng bát hay chén.
Nhà ở
Nhà của người Hmông là nhà trệt. Để chống gió, khi lạnh sương muối vùng cao nhà của họ thường là thấp vững chắc kín đáo. Nhà phổ biến dựng trên các triền núi, phía trước có suối, phía sau là núi che chở xung quanh có thể trồng trọt và chăn nuôi gia súc.
Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ. Bộ khung bằng gỗ, vì kèo kết cấu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hay hai xà ngang, một trên một dưới. Cửa chính mở ở gian giữa cửa phụ ở gian 2 bên hay đầu hồi nhà. Gian giữa là nơi thờ tổ tiên và để công cụ sản xuất. Tùy từng dòng họ mà bếp lò và buồng chủ nhà được đặt bên trái hay bên phả nhưng bao giờ buồng chủ nhà cũng phải đặt cạnh “cột ma”. Cửa chính của ngôi nhà thường treo 1 tấm vải đỏ chình chữ nhật hay các tờ giấy bản với ý nghĩa cầu phúc. Hướng cửa nhà thường là hướng Đông hay Tây theo quan niệm để làm ăn tốt.
Trang phục:
Trừ nhóm Hmông xanh và nhóm Na Miẻo dệt vải sợi bông, các nhóm Hmông khác đều dệt vải sợi lanh. Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Chỉ cần nhìn vào màu sắc, cách thức trang trí trên trang phục của họ ta cũng có thể nhận ra học thuộc nhóm Hmông nào.
Trang phục nữ phản ánh rõ nhất đặc trưng tộc người, và tạo nên sự đa dạng phong phú trong cách ăn mặc của phụ nữa Hmông. Nam giới Hmông mặc tương đối thống nhất, hầu hết họ mặc quần “lá tọa” cắt theo kiểu chân què, đũng và ống quần rất rộng, thích hợp với sinh hoạt ở địa hình núi cao.
Đời sống Tín ngưỡng tâm linh
Tín ngưỡng tôn giáo truyền ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status