Xây dựng xã hội học tập ở nước ta - pdf 16

Download miễn phí Xây dựng xã hội học tập ở nước ta



Theo các chuyên gia giáo dục, XHHT bao gồm những thiết chế giáo dục khác nhau, nhưng có thể thấy cơ bản có hai hệ thống. 1) Hệ thống giáo dục ban đầu (trong nhà trường): bao gồm các loại hình trường học, cấp học, từ mầm non đến đại học, sau đại học (đào tạo tiến sĩ). Một đời người nếu học hết hệ thống này ước tính chừng mất 25 năm. 2) Hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường), là hệ thống giáo dục kéo dài liên tục suốt đời, chủ yếu dành cho người lao động lớn tuổi hay tuổi trẻ có nhu cầu. Hạt nhân của hệ thống giáo dục thường xuyên là các trung tâm giáo dục cộng đồng (TTGDCÐ).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ộ khác, từ Trung Quốc. Nhưng rồi giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Tiếp theo đó là đại cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố này. Trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 - 1970 nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, mặc dù thế một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước.
Có thể nói cho đến nay, ở ta mới có những người trí thức lớn - không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được "lớn" lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào tri thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến "tầm" trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều kiện không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.
2. Từ chuyện người có học đến chuyện kiến tạo một xã hội học tập
Việc kiến tạo một xã hội học tập trong đó mọi thành viên đều được học tập lại là điệu tuyệt đối không dễ dàng. Bên cạnh đòi hỏi về một nguồn ngân sách Nhà nước khổng lồ, một nguồn tài chính từ trong nhân dân hừng hậu, còn cần tạo ra được một cương lĩnh, một chương trình giáo dục vừa phải ưu việt vừa phải mang tính khả thi. Một xã hội học tập lại cũng là một xã hội đòi hỏi một đội ngũ cực đông đảo những người giáo dục và quản lý giáo dục có chất lượng, dù yêu cầu tự học có tăng lên đến mức tối đa chăng nữa.
Một hệ vấn đề tưởng như đã cũ nhưng do việc tìm lời giải đáp cho đến nay còn mơ hồ nên hóa ra lại thành hệ vấn đề thời sự đó là đáp án đúng cho những câu hỏi nền tảng: ai là người cần học, học cái gì, học ở đâu, học đến đâu, học để làm gì? Điều lạ lùng là, theo tôi, đối với tất cả các câu hỏi này, tìm từ trong lịch sử, đều chỉ thu về được những lời đáp đáng thất vọng trên thực tế.
Trong những phẩm chất mà nhiều người muốn đề lên thành phẩm chất dân tộc, liên quan đến chuyện học hành, có đức tính hiếu học, và vì thế, truyền thống tôn sư trọng đạo. Thật đáng ngạc nhiên, người ta có thể gán một phẩm chất cho một chủ thể không có khả năng thực tế để thực hiện phẩm chất đó. Ít nhất, từ cách mạng tháng 8 trở về trước, căn cứ vào các con số điều tra và thống kê, tuy có sai khác, nhưng dao động trong khoảng từ 95% - 99% người Việt Nam mù chữ. Một cộng đồng với tuyệt đại đa số người không được học, không đi học, không biết chữ, làm sao xác định rằng cộng đồng đó hiếu học hay không? tui nêu lại vấn đề này không phải vì hiểu sự hay thích gây sự, mà nhằm tìm kiếm câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên đã nêu ở trên: ai cần học?
Nhu cầu học tập là một loại nhu cầu thứ sinh, không phải là nhu cầu mang tính tự nhiên như những nhu cầu mà Marx đã đề cập ở con người trước khi nó xây dựng nên những cộng đồng xã hội như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái… Loại nhu cầu có tính tự giác, duy lý mang tính định hướng mục tiêu này chỉ được thỏa mãn thật sự khi mục tiêu thật sự rõ ràng.
Như đã rõ, tuy nói rằng nhà nho từng tự đòi hỏi phải tinh thông "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), và với những người được ca ngợi là thông minh cái thế, thì "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng nền giáo dục Nho giáo, căn cứ vào việc khảo sát các loại đề thi ở cấp cao nhất là Đình thí hay Điện thí, yêu cầu chủ yếu đối với người đỗ Tiến sĩ (kể cả đệ nhất giáp, tức đỗ đến Trạng nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), cũng chỉ tập trung vào 2 nội dung chủ yếu: văn chương và đạo lý. Nho giáo khởi đầu là một học thuyết đạo đức và cốt lõi của nó cho đến cùng vẫn là những nội dung đạo đức, nên giáo dục mà nó triển khai trong hàng vài nghìn năm bi trói buộc chặt chẽ vào những yêu cầu hiểu và thực hành trước hết là những nội dung đạo đức. Quanh quẩn với những "tu, tề trị, bình", với những "hành, tàng, xuất, xử", cả hai nội dung lớn mà một nền giáo dục lành mạnh bất kỳ nào cũng phải hướng tới là tri thức và kỹ năng lại đã chỉ được nền giáo dục Nho giáo đáp ứng một cách cực tiểu, tối thiểu. Đói diện với chủ nghĩa thực dân, dù vững tin vào đạo lý, vào chính nghĩa của mình, nhà Nho đã phải nhanh chóng cay đắng thừa nhận “gươm nhân giáo nghĩa” không trụ nổi với “giáp bền gươm sắc", càng không thể đương đầu có hiệu quả với "tàu thiếc tàu đồng, ngư lôi đại bác". Sự tỉnh thức của chính các nhà nho Duy tân đầu thế kỷ XX là một tình huống thời sự kéo dài, cho đến nay lại càng thêm cấp bách.
Những tri thức, kỹ năng toàn diện và ở trình độ cao, có được là nhờ nhũng nỗ lực cá nhân to lớn và những chi phí còn to lớn hơn, lại là điều quá xa xỉ trong một xa hội nông nghiệp sản xuất nhỏ. Không hình thành nổi nhu cầu học tập mạnh mẽ và đích thực một khi không/ hay chưa có chỗ ứng dụng những tri thức và kỹ năng học tập được ấy. Chưa bao giờ giáo dục ở ta được hạch toán như là đầu vào (imput) của một chu trình liên tục trong nền kinh tế quốc dân, như là một tham số hữu cơ của nền kinh tế mà chỉ mới được quan niệm như là một vấn đề thuộc phúc lợi xã hội. Những năm gần đây, khi vỡ lẽ ra (chẳng lẽ mãi mà không vỡ lẽ ra cái điều tối thiểu ấy?) rằng giáo dục là động lực để cải tạo nền kinh tế, các quyết sách về giáo dục văn chỉ mới chuyển động ở cầp vi mô: không ai giải thích với chúng ta, từ ông Bộ truởng Bộ Giáo dục, cho đến câc ông Hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, các Bộ chuyên ngành rằng tại sao năm nay, thời gian này, từng trường một lại cần và có thể tuyển số lượng sinh viên là như thế, mà không phải là những con số khác. Các giám đốc Sở giáo dục không thuyết trình rõtại sao tỉnh này cần đến ngần này loại trường, ngầnnày loại lớp... Cho đến nay, kể cả ở các truờng Đại học lớn, vốn được tiếng, hay nói theo ngôn ngữ hành chính là đảm nhiệm chức năng "máy cái", vẫn có lượng sinh viên tại chức đông hon chính quy, trong khi tỷ lệ mà báo chí nêu, có đến 70 - 80% sinh viên chính quy tốt nghiệp không có việc hay làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo.
Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng cãc trường Đại học, cần hình thành cho được hệ thống các trường dạy nghề đa dạng, phong phú, số lượng lớn, vừa kế thừa và phát huy được những thứ nghề truyền thống, vừa đón bắt nhu cầu của các loại ngành nghề mới của công nghiệp, dịch vụ hiện đại, khiến cho tuyệt đại đa số người lao động còn có khả năng lao động hay lớp trẻ khi nhìn vào tương lai có được sự bình thản khi nghĩ tới chỗ làm, nghĩ tới "đầu ra", phải chăng một sự tiên lượng về những việc phải làm trong quỹ đạo này, từ trưóc tới nay, vốn là bất khả và từ giờ trở đi, vẫn cứ là "chưa phải lúc"? Theo ý tôi, cái xã hội học tập mà ta mong muốn kiến tạo, cần trước hết tập trung vào đối tượng ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status