Những đóng góp của Tuệ Trung thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam - pdf 16

Download miễn phí Luận văn Những đóng góp của Tuệ Trung thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam



MỤC LỤC
Trang phụbìa
Lời Thank
Kí hiệu các từviết tắt trong luận văn
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: THỜI ĐẠI LÝ TRẦN VÀ TUỆTRUNG THƯỢNG SĨ
1.1. Bối cảnh lịch sử– xã hội thời Lý Trần . 16
1.2. Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần . 21
1.3. TuệTrung Thượng sĩ– thân thếvà hành trạng . 28
Chương 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀNỘI DUNG – TƯTƯỞNG CỦA
TUỆTRUNG CHO THƠTHIỀN VIỆT NAM
2.1. Tưtưởng “tuỳduyên”. 35
2.2. Tinh thần phá chấp triệt để. 40
2.3. Tinh thần tựtin vào bản thân. 48
2.4. Tinh thần dung hợp Tam giáo . 54
Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀNGHỆTHUẬT CỦA TUỆ
TRUNG CHO THƠTHIỀN VIỆT NAM
3.1. Vềngôn ngữ. 61
3.2. Vềhình tượng nghệthuật . 69
3.2.1. Con người . 69
3.2.2. Thiên nhiên . 81
3.2.3. Không gian nghệthuật. 86
3.2.4. Thời gian nghệthuật. 89
3.3. Vềgiọng điệu . 95
3.4. Vềthểloại và kết cấu . 102
KẾT LUẬN .111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
THƯMỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆTRUNG



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

bàn về
tâm nguyên, diệu tính... còn có thể kể đến bài Không đề của Huệ sinh, bài
Tính diệu của Ngộ Ấn, bài Thị chư Thiền lão tham vấn Thiền chỉ của Lý
Thái Tông... ở đời Lý. Đầu đời Trần, Trần Thái Tông có nói: “Ôi những
người học đạo chỉ cần thấy tính” (Bàn về tọa thiền). Theo vua “tính” là đối
tượng của sự tu chứng, “tính” chính là Phật tính hiện hữu trong tâm thức của
mỗi con người. Người cho rằng mục tiêu của sự tu đạo là trở về tìm lại tính
siêu việt lâu nay đã bị vọng tâm che mất. “Hãy quay đầu nhìn lại trong nội
tâm” hay “nếu có thể quay sang phản chiếu lại mình thì sẽ được thấy tánh mà
thành Phật”(Khóa hư lục). Vì thiền gia này cho rằng: “Phật thân tức ngã
thân thị, vô hữu nhị tướng” (Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng –
Bàn về niệm Phật).
Trên nền tảng tư tưởng của các bậc tiền bối, cái mới của Tuệ Trung là
triệt để nhấn mạnh kêu gọi con người từ bỏ sự tìm cầu bên ngoài để trở về với
chính mình, lắng nghe sự diệu kì của Phật tính trong chính ta. Thượng sĩ đã
nhiều lần xác định mạnh mẽ: “Lông mày ngang, lỗ mũi dọc; Phật và chúng
sinh đều cùng một bộ mặt mà thôi” [58, B.106], “xưa không có Tâm, nay
không có Phật” [58, B.103]. Nhưng do vọng niệm, vô minh, con người cứ
chạy theo bóng dáng hư ảo mà quên mất bản thân mình. Tuệ Trung nhấn
mạnh sự cần thiết phải quay về với chính mình. Bởi vì muốn nhận thức được
ánh sáng của Phật pháp, mỗi người phải vận dụng đến khí lực của mình,
không thể ỷ lại, nương nhờ vào kẻ khác. Trong bài Thị học, ông viết:
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ,
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa.
Dịch nghĩa:
Báo cho anh biết đừng dựa vào cổng ngõ người khác,
Chỉ một chấm sáng mùa xuân vừa lóe hiện thì khắp chốn
đều nở hoa.
(Gợi bảo người học đạo)
Khi tiết trời đến độ thì trăm hoa sẽ đua nở, nhưng muốn ngửi mùi
hoa vi diệu ấy ta phải ngửi bằng mũi của chính mình. Cũng như khi đói tự
mình ăn mới no, khi ngứa phải tự mình gãi mới thỏa, không một ai có thể làm
thay công việc ấy cho ta:
Gãi ngứa đâu phải ngứa của người,
Đói ăn chính thật bụng nhà ngươi.
(Đối cơ)
Sở dĩ con người ngộ được đạo là vì sẵn có Phật tính trong mình, tự nó
viên thành, chẳng tìm cầu bên ngoài mà được. Xưa nay những hình thức tìm
cầu bên ngoài chỉ là những thứ rêu phong bám vào đạo Phật, thứ con người
bắt chước nhau “chẳng những chôn vùi mất giáo pháp của tổ tông mà còn làm
cho yêu ma nổi dậy, tự mình lại ám ảnh cả mình” [58, B.103]. Vì thế Tuệ
Trung luôn nhắc nhở con người: “đừng tìm Thiếu Thất với Tào Khê”, cũng
“chớ tìm Nam Bắc với Đông Tây” [58, B.98]. Ông kêu gọi họ:
Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch.
Bản thể như như tự không tịch.
Niết bàn sinh tử mạn la lung,
Phiền não Bồ đề nhàn đối địch.
(Phật tâm ca)
Dịch nghĩa:
Muốn tìm tâm,
Đừng tìm ở bên ngoài;
Bản thể của nó cứ như thế và không tịch.
Niết bàn và sinh tử ràng buộc lỏng lẻo thôi,
Phiền não và Bồ đề coi thường cả sự đối nghịch của
chúng.
(Bài ca tâm và Phật)
Ông đề xuất con người hãy quay về tìm lấy trong mình tinh thần trẻ thơ
còn hồn nhiên chân chất, còn nguyên vẹn Phật tính, chưa bị sắc tướng làm
cho sai lạc:
Thế gian nghi vọng bất nghi chân,
Chân vọng chi tâm diệc thị trần.
Yên đắc nhất cao siêu bỉ ngạn,
Hiếu tham đồng tử diện tiền nhân.
(Thị chúng, B.68)
Dịch thơ:
Dối ưa thực ghét, ấy trò đời,
Thực dối tâm kia, bụi cả thôi.
Muốn nhảy cho cao, sang bến nọ,
Hỏi xem con trẻ, có như lời?
(Gợi bảo mọi người – Huệ Chi dịch)
Bởi vì lòng chúng nhân vốn nhiễu loạn nên thường bị thế giới hiện
tượng làm cho sai lạc. Nếu giữ được tinh thần vô ưu của “đồng tử” thì sẽ tìm
được “cái thân vàng cao quý nhất của Phật Di Đà ở ngay trong lòng” [58,
B.80].
Về sau phát huy tư tưởng của ân sư, Trần Nhân Tông trong Cư Trần
lạc đạo phú cũng tha thiết kêu gọi:
Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt;
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.
Tục ngữ Việt Nam ta có câu: “Bụt trong nhà mà lại đi cầu Thích Ca
ngoài đường”. Bụt ở đây chính là đức Phật, còn nhà là tâm của chúng ta. Trần
Nhân Tông cho rằng Phật có trong chính tâm của chúng ta, chẳng cần tìm ở
đâu xa xôi, tìm Phật hãy quay lại nội tâm mà tìm. Chân tính của chúng ta lúc
nào cũng nằm nguyên ở đó, nhưng do “khuấy bản”, vô minh, vọng tâm nổi
lên che lấp nên ta không thấy. Nếu chúng ta cứ cố chạy theo ảo ảnh bên ngoài
thì ta càng cố tìm, Phật càng xa. Trần Minh Tông trong Giới am ngâm, phát
huy tư tưởng cuả người đi trước cũng nâng con người lên ngang tầm với Phật:
“Hưu hưu ngoại mịch khổ thi công. Phất phất tị khổng cổ kim đồng” (Rốt
cuộc đừng tìm kiếm bên ngoài vô ích; lỗ mũi phập phồng thở xưa nay đều
như nhau). Huyền Quang luôn ý thức về tự tính giác ngộ sẵn có ở mỗi người:
“Cốc được tính ta nên Bụt thực. Ngại chi non nước cảnh đường xa” (Vịnh
Vân Yên tự phú). Pháp Loa trong bài Thượng thừa tam học khuyến chúng
phổ thuyết thì khuyến cáo: “Phù học Phật chi lưu, tiên tu kiến tính” (Người
học Phật, trước tiên cần thấy tính). Nhờ tính mà con người nhìn nhận mọi vấn
đề trên cơ sở bình đẳng, không chịu chi phối bởi một thế lực nào.
Trở lại với Tuệ Trung, ta thấy từ chỗ nhìn nhận đúng tầm quan trọng
của cái Tâm, Thượng sĩ đã truyền cho con người sự tự tin mạnh mẽ: “Thanh
văn ngồi Thiền, ta không ngồi; Bồ Tát thuyết pháp, ta nói thực” [58, B.105].
Thượng sĩ không buộc con người vào chính pháp nào. Theo ông khi con
người đạt đến cái tâm vi diệu thì chẳng cần niệm Phật hay tu Thiền nữa:
Đường trung đoan tọa, tịch vô nghiên
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên.
Tự thị quyện thời tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền.
Dịch nghĩa:
Ngồi ngay ngắn giữa nhà, lặng lẽ không nói
Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân.
Khi nào mỏi mệt thì tâm tự tắt,
Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần Thiền.
(Chợt hứng làm thơ)
Nói như thế nghĩa là Tuệ Trung đã thể hiện lòng tin mạnh mẽ ở con
người. Chính điều này đã góp phần làm nên tinh thần tích cực, hào khí của
thời đại và theo nhận xét của giáo sư Cao Xuân Huy, đó là “tinh thần cách
mạng của đạo Thiền”. Tinh thần ấy giúp con người làm chủ bản thân mình,
hợp thành sức mạnh to lớn có thể đè bẹp đế quốc xâm lăng hùng mạnh bậc
nhất thời đó.
2.4. Tinh thần dung hợp Tam giáo
“Tam giáo đồng nguyên” là thuật ngữ chỉ sự kết hợp, dung hòa cả tinh
thần Nho – Phật – Đạo. Đây không phải là hiện tượng riêng biệt ở Việt Nam
mà là hiện tượng chung trong lịch sử tư tưởng của người phương Đông. Quan
niệm “Tam giáo đồng nguyên”, theo tác giả Nguyễn Công Lý trong Văn học
Phật giáo thời Lý Trần - diện mạo và đặc điểm, có từ thời Ngụy Tấn Nam
Bắc triều. Người bắt đầu thể hiện tinh thần này là đạo sĩ Cát Hồng, sau đó
được đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh phát triển thêm. Quan niệm nà...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status