Vận dụng quan điểm tích hợp và tích cực trong việc dạy học ngữ pháp ở trường trung học phổ thông - pdf 16

Link tải miễn phí luận văn
- 1 -
Phần 1: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài, đối tượng và mục đích nghiên cứu
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp quan trọng, vừa là công cụ để con
người nhận thức, tư duy. Trong nhà trường, việc giáo dục ngôn ngữ là hết sức
cần thiết, Tiếng Việt trở thành môn học có vị trí đặc biệt: nó không chỉ cung cấp
những kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếng mẹ đẻ để phát triển khả năng giao
tiếp cho HS, mà còn trang bị cho các em một công cụ thiết yếu để học tốt các
môn khoa học khác. Tiếng Việt còn là phương tiện để lưu trữ và bảo tồn bản sắc
văn hoá của dân tộc. Qua môn Tiếng Việt các thế hệ thanh niên, HS sẽ hiểu được
văn hoá của người Việt, thiên hướng tư duy của người Việt, lịch sử của tiếng
Việt trong mối quan hệ chiều sâu với văn hoá… Những hiểu biết này sẽ góp
phần quan trọng vào việc giáo dục nhân cách sống và những giá trị sống tốt đẹp
cho HS .
Tuy vậy, trong chương trình phổ thông, việc xác định Tiếng Việt như một
môn học độc lập là cả một quá trình lâu dài. Trước năm 1986, việc dạy Tiếng
Việt chưa được chú trọng: dạy Tiếng được lồng vào quá trình dạy Văn, không có
SGK riêng cho Tiếng Việt. Mãi đến năm 1986, ở cấp THCS, Văn và Tiếng mới
được tách thành hai môn riêng, Tiếng Việt mới có tư cách là một môn học độc
lập. Ở trường THPT, năm 1990 Tiếng Việt mới thành môn học chính thức – có
chương trình và SGK riêng. Đến năm 2000 (sau 10 năm) SGK Văn – Tiếng Việt
THPT đã được điều chỉnh nhưng vẫn còn nặng về lý thuyết. Hiệu quả dạy học
Tiếng Việt trong nhà trường nhìn chung còn chưa cao, năng lực sử dụng tiếng
Việt của cả HS và sinh viên vẫn còn yếu kém.
Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hoá, Việt nam đã từng bước
chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và kinh tế
tri thức. Việc nâng cao chất lượng giáo dục, phát huy nguồn lực con người vì thế
càng được xem là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước.
Nhà trường cần tạo ra được những con người có khả năng thực hành cao, vững
về chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ… Muốn vậy, bên cạnh việc đổi mới chương
trình dạy học thì việc đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo
dục.
Từ thực tế đó, năm 2000, chúng ta đã cải cách chương trình và SGK. Bắt
đầu từ tháng 9 năm 2006, chương trình Ngữ văn THPT được sử dụng đại trà.
Việc biên soạn sách được xây dựng theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực”. Ba
môn Văn học – Tiếng Việt – Làm văn, trước đây được biên soạn độc lập, nay
được tích hợp lại trong một môn có tên gọi mới là Ngữ văn. Với chương trình và
SGK Ngữ văn THPT mới, việc “dạy văn thực chất là dạy cho HS PP đọc văn.
[…] Để dạy và học đọc văn, không chỉ dựa vào những kiến thức lịch sử và lí
luận văn học mà còn phải trang bị cho HS các kiến thức Việt ngữ với tất cả các
đơn vị và cấp độ ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, đoạn văn, văn bản.
Chính những đơn vị ngôn ngữ này tạo nên thế giới hình tượng của tác phẩm văn
học” [35, tr.24]. Theo quan điểm giao tiếp và lí thuyết phát triển lời nói thì việc
dạy tiếng thực chất là quá trình giao tiếp hoá. Vì vậy, trong SGK Ngữ văn, phần
Tiếng Việt đã được chú trọng về tính hành dụng, tức là khả năng ứng dụng của
việc học tiếng Việt vào việc đọc văn và vào các hoạt động giao tiếp bằng ngôn
bản khác.
Riêng phân môn Ngữ pháp, chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn
bậc THCS dành thời lượng khá lớn cho việc nâng cao và hoàn chỉnh dần những
kiến thức mà HS đã được học ở Tiểu học (về từ loại, cụm từ, nòng cốt câu (lớp
6); kĩ năng tách, gộp, rút gọn, mở rộng câu (lớp 7); câu ghép, câu chia theo mục
đích nói (lớp 8); liên kết câu (lớp 9)). Trong chương trình Ngữ văn THPT, HS
vẫn được học tiếp nối những kiến thức về ngữ pháp nhưng việc trang bị kiến
thức mới rất ít, chủ yếu là rèn luyện kĩ năng sử dụng câu trong giao tiếp (tập
trung ở chương trình Ngữ văn 11). Nhìn chung, nội dung của các bài học ngữ
pháp ở THPT cũng đã được biên soạn theo hướng chú trọng tính thực hành, có
sự tích hợp kiến thức với phần Làm văn và Đọc văn trong chương trình. Bên
cạnh đó, các bài học được thiết kế theo hướng “mở” (việc lựa chọn ngữ liệu hay
những kết luận được rút ra sau khi tìm hiểu ngữ liệu đều không mang tính bắt
buộc, áp đặt), GV có thể có những sáng tạo riêng trong bài dạy sao cho phù hợp
với đối tượng HS, để HS chủ động, tích cực cùng GV xây dựng bài học.
Tuy nhiên, dù chương trình Ngữ văn THCS đã được triển khai đại trà từ
năm 2002, Ngữ văn THPT là từ năm 2006, nhưng thực tế dạy học cho thấy nhiều
HS vẫn cảm giác nặng nề khi học và không có hứng thú với những bài về Tiếng
Việt. Tình trạng dùng từ tuỳ tiện, viết câu sai, cách diễn đạt xa rời chuẩn mực
tiếng Việt vẫn còn nhiều đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tư duy, đọc hiểu
văn bản và viết văn nghị luận của các em. Thực tế này đã đặt ra cho các nhà sư
phạm nói chung và những GV dạy Ngữ văn nói riêng nhiều trăn trở về hiệu quả
của việc dạy Tiếng, về chương trình – SGK, về việc đào tạo và bồi dưỡng năng
lực sư phạm cho GV Ngữ văn, về hình thức kiểm tra - đánh giá kết quả học
Tiếng Việt,… trong đó có việc dạy học phân môn ngữ pháp.
Từ lí do trên, chúng tui chọn việc dạy học ngữ pháp ở trường THPT theo
quan điểm “tích hợp” và “tích cực” làm đối tượng nghiên cứu.
Đề tài của chúng tui hướng tới việc tìm hiểu những cơ sở lí luận về PPDH
Tiếng Việt theo quan điểm “tích hợp”, “tích cực” và nghiên cứu các PP dạy học
ngữ pháp theo quan điểm mới với mục đích có thể giúp GV có những định
hướng và sự thay đổi cần thiết, phù hợp với điều kiện dạy học để tạo ra những
giờ học ngữ pháp hứng thú, hiệu quả, chất lượng hơn, giúp HS có ý thức nói và
viết câu chuẩn mực hơn trong hoạt động giao tiếp.
II. Lịch sử vấn đề
1. Những nghiên cứu về việc dạy học ngữ pháp ở bậc THPT
PPDH Tiếng Việt chủ yếu dựa vào chương trình Tiếng Việt ở phổ thông nên
khi chương trình có sự thay đổi thì PPDH cũng được điều chỉnh cho phù hợp.
Năm 2006, SGK Ngữ văn THPT được triển khai đại trà. Trước đó, có một số
công trình nghiên cứu về PPDH Tiếng Việt nhưng là để áp dụng cho việc dạy
Tiếng Việt theo SGK cũ. Sau khi SGK mới được sử dụng, PPDH Tiếng Việt đã
được tiến hành nghiên cứu theo những quan điểm dạy học mới. Vì vậy, luận văn
chọn mốc thời gian là năm 2006 để sắp xếp và trình bày các công trình nghiên
cứu về PPDH Tiếng Việt.
a. Từ năm 1986 đến trước năm 2006
Từ năm 1986, khi Tiếng Việt được xem là một môn học độc lập trong nhà
trường, đến trước năm 2006 chúng ta có nhiều có nhiều công trình nghiên cứu về
PPDH Tiếng Việt, nhưng chỉ có một số ít bàn đến việc dạy học ngữ pháp, như:
Dạy học ngữ pháp ở tiểu học [30] của tác giả Lê Phương Nga, “Phương pháp
dạy học tiếng Việt” (2 tập) [2] do nhóm tác giả PGS. TS Lê A, Thành Thị Yên
Mĩ, PGS. TS Lê Phương Nga biên soạn chủ yếu dành cho GV bậc Tiểu học, và
quyển “Phương pháp dạy học tiếng Việt” [1] (Lê A chủ biên).

/file/d/0Bz7Zv9 ... sp=sharing
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status