Bùng nổ dân số - Một vấn đề toàn cầu - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Bùng nổ dân số - Một vấn đề toàn cầu

LỜI MỞ ĐẦU:

Những vấn đề toàn cầu là những vấn đề có tính toàn thế giới và tính toàn nhân loại, có hậu quả vô cùng nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn đối với loài người và là những vấn đề chỉ có thể dựa vào nỗ lực chung của toàn nhân loại mới giải quyết được.
Đây là một định nghĩa khá rõ ràng nhưng trên thực tế để chỉ ra được một vấn đề là vấn đề toàn cầu đôi khi gặp rất nhiều tranh cãi. Một số vấn đề mang tính cục bộ được khuyếch trương một cách dụng ý lên thành vấn đề nhân loại trong khi một số khác mang tính phổ biến lại bị giới hạn là vấn đề cho một số khu vực. Vì vậy chứng minh một vấn đề thực sự là vấn đề toàn cầu là một công việc quan trọng vì chỉ khi đó chúng ta mới định hướng được nhận thức và mối quan tâm tương xứng của toàn thế giới từ đó có một sự nghiên cứu đầy đủ để đi tới một giải pháp toàn diện và thích hợp.
Trong khuôn khổ tiểu luận của mình, chúng em chọn vấn đề bùng nổ dân số và sẽ đi vào chứng minh bùng nổ dân số không chỉ là vấn đề của Châu Phi hay Châu Á, bùng nổ dân số là một vấn đề toàn cầu thông qua ba bước chính là trình bày thực trạng, tác động và giải pháp cho vấn đề bùng nổ dân số hiện nay trên thế giới.

I. Thực trạng bùng nổ dân số:

“Vấn đề Bùng nổ dân số”:
 “Dân số” là tập hợp những người sinh sống trong một quốc gia, khu vực,vùng địa lý kinh tế hay một đơn vị hành chính.
 “ Bùng nổ dân số” là sự tăng trưởng của mật độ dân số ở mức cao khiến cho không gian, lương thực, thực phẩm, đất đai, nước uống và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trong khoảng không gian hiện có không đủ để cung cấp cho nhu cầu của tất cả số dân.
1. Tình hình thực trạng Bùng nổ Dân số Thế giới (World Population’s explosion):
Xem xét tình hình dân số thế giới từ trước đến nay thì dân số thế giới bùng nổ với một tốc độ khá chóng mặt.
Cụ thể là vào thời kỳ đồ đá cũ, số lượng tổ tiên con người hiện đại, chỉ mới là 150 triệu người. Ở giai đoạn tiếp theo- đầu thời kỳ đồ đá mới, dân số thế giới lúc này đạt 15 triệu người. Và nếu ta đem so sánh khoảng thời gian để dân số thế giới tăng lên cùng 1 tỷ người qua các thời ký, ta sẽ càng thấy rõ được điều này. Nếu như 1850 dân số thế giới đạt ngưỡng 1 tỷ người, và sau 80 năm (1930) - đã lên tới 2 tỷ người. Và khoảng cách này càng ngày càng giảm dần: từ 30 năm -1960 với 3 tỷ, giảm xuống còn 14 năm – 1974 với 4 tỷ và cuối cùng là chỉ là 11 năm - 1985 để tăng từ 4 tỷ lên 5 tỷ.


Và nếu như nhìn trong tổng thể tiến trình phát triển của lịch sử của loài người từ trước đến nay, thì chỉ có giai đoạn Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trong khoảng thời gian 1965-1970, tỷ lệ tăng dân số trên phạm vi toàn cầu cao và đạt đến đỉnh điểm cao nhất hay được gọi là giai đoạn bùng nổ dân số. Mặc dù vậy, trong những giai đoạn phát triển sau, tốc độ tăng dân số thế giới lại có xu hướng chậm lại.
Nguyên nhân sở dĩ dẫn đến tình trạng trên là do: Trong giai đoạn đầu trong lịch sử phát triển của nhân loài người, tỷ lệ sinh còn khá cao cùng với nhu cầu duy trì nòi giống và lực lượng sản xuất nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội, gắn liền với tỷ lệ sinh cao, là tỷ lệ tử của trẻ sơ sinh cũng như của người có tuổi trong giai đoạn này cũng khá cao bởi cơ sở vật chất kỹ thuật chưa thực sự phát triển, nhiều căn bệnh hiểm cùng kiệt không có khả năng cứu chữa và thiếu sự chăm sóc quan tâm đến sức khoẻ. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên. Ngược lại, trong giai đoạn “ bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó, tỷ lệ tử lại có xu hướng giảm. Bởi cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại diễn ra trong thế kỷ XVIII, chất lượng cuộc sống được nâng cao, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đến: thức ăn, nước uống, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ…Bên cạnh đó, vào khoảng thế kỷ XVIII, cùng với việc phát minh ra vắc xin, thuốc kháng sinh, và bản đồ gen người,… nhiều căn bệnh hiểm cùng kiệt từ thế kỷ trước đã bị đẩy lùi, nhờ đó mà tuổi thọ trung bình của con người tăng lên, tỷ lệ trẻ sơ sinh bị chết cũng giảm đáng kể. Chính từ những điều này, đã dẫn đến tình trạng tăng dân số với tốc độ chóng mặt ở hầu hết khắp nơi trên thế giới trong giai đoạn 1965-1970- giai đoạn bùng nổ dân số thế giới. Nhưng ở giai đoạn tiếp sau, cùng với nhận thức của con người về vấn đề bùng nổ dân số đem lại, trình độ khoa học công nghệ hiện đại giúp tăng cường sức khoẻ cho con người, chất lượng cuộc sống cao…mà tốc độ bùng nổ dân số lại có xu hướng giảm xuống.
Một vấn đề khác cũng xuất hiện là sự tăng trưởng dân số hàng năm ở các khu vực khác nhau trên thế giới cũng khác nhau.

Thực tế là dân số tăng nhanh ở khu vực nước nghèo, kém phát triển, và ngược lại ở những khu vực giàu, phát triển thì tỷ lệ gia tăng dân số lại ở mức thấp. Điều này có thể thấy qua biểu đồ trên. Hơn 60% dân số thế giới tập trung ở khu vực châu Á, châu Phi (các vùng màu xanh và tím ) trong khi đó, chỉ có gần 40% dân số tập trung ở khu vực còn lại- châu Âu, châu Mỹ (các màu còn lại) . Cụ thể hơn nữa qua số liệu sau ta có thể thấy rằng: Trong giai đoạn 2000-2005 ở khu vực châu Phi là 1,4%/năm . Ngược lại, cũng ở giai đoạn này, tại những khu vực phát triển như châu Âu tỷ lệ tăng dân số chỉ là 0,20%/năm .Thậm chí, ở nước trong khu vực phát triển tỷ lệ tăng dân số là âm. Ví dụ như Đan Mạch: -0,04%/năm.

Sở dĩ dẫn đến tình trạng này là sự chênh lệch giàu nghèo, giữa các khu vực phát triển và kém phát triển. Từ đó một trong những hậu quả kéo theo là trình độ nhận thức của người dân ở những khu vực kém phát triển về tác hại của vấn đề bùng nổ dân số thấp hơn nhiều so với khu vực phát triển. Thêm vào đó là trình độ khoa học kỹ thuật cũng như điều kiện cơ sở vật chất ở các nước kém phát triển thường thiếu thốn, kém chất lượng hơn nhiều so với các nước phát triển. Hậu quả tất yếu dẫn đến là tốc độ tăng dân số ở những khu vực này thường cao hơn các khu vực phát triển.

3. Dự đoán:

Theo như các con số thống kê mới nhất cho tới nay, thì dân số thế giới vào khoảng 6,5 tỉ người và ước tình thì con số này sẽ có thể tăng thêm 76 triệu người mỗi năm, nghĩa là vào khoảng 209.000 người mỗi ngày. Còn theo các nhà nhân khẩu học thì dân số thế giới hiện đang tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao khoảng 1,7% mỗi năm và ước tính cho đến năm 2020 sẽ xấp xỉ là 8 tỷ người. đoán cao nhất hiện nay là dân số thế giới vào năm 2020 sẽ là 12,5 tỷ người. Nếu lấy số liệu này làm cơ sở thỉ đến năm 2100, sẽ tăng tới 19 tỷ. Hiện nay, các chuyên gia vẫn tiếp tục suy nghĩ, trước khi kết thúc một thế kỷ sau, vấn đề bùng nổ dân số thế giới cuối cùng nghiêm trọng tới mức độ nào.




Quả thật, chúng ta hiện nay, không thể biết đích xác Trái Đất có thê chịu đựng được sức ép cao nhất của dân số thế giới là bao nhiêu. Có người cho rằng mức cao nhất là khoảng 20 tỷ đến 30 tỷ. Những cũng có người cho rằng dân số hiện nay đã mấp mé bên bờ bùng nổ. Nhưng cũng cần nói rõ ở đây rằng, ta không thể giả định dân số thế giới chỉ mãi tăng không thôi, để cuối cùng khiến Trái Đất chật đến mức không còn chỗ dung thân. Khái quát mà nói, sự tăng trưởng dân số là kết quả của tỷ lệ sinh sản cao hơn tỷ lệ tử vong. Giả sử hai tỷ lệ tăng giảm bù trừ cho nhau thì dân số thế giới cũng có xu thế ổn định. Trước đây, nhìn chung là như vậy, trong tương lai đến một ngày nào đó, sẽ có thể có giai đoạn trở lại trạng thái cân bằng như thế. Theo đoán của các chuyên gia, có thể sau năm 2020, dân số thế giới sẽ ngừng tăng mà giảm xuống, và qua 10 năm có thể ổn định ở mức 11 tỷ.
Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán, tuy vậy sự thật của quá trình phát triển sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bên ngoài lẫn bên trong, do vậy về cơ bản không thể đưa ra được bất kỳ số liệu chính xác nào .

4. Tình hình dân số tại Việt Nam:

Xét về tình hình dân số ở Việt Nam hiện nay tổng số dân : vào khoảng hơn 83 triệu, trong đó tỷ lệ các gia đình có hơn 3 con đã tăng lên 20,8% trong năm nay, so với 20,2% trong năm ngoái. Tỉ lệ người dân sống ở khu vực thành thị là 25,9%, ở khu vực nông thôn là 74,1%. Tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1,44% và mật độ dân số là 247,9 người/ km2
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia dân số thì số dân tăng thêm mỗi năm đang có xu hướng giảm dần. Dù vậy, với quy mô và tốc độ tăng dân số như hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước có số dân khá đông, đứng thứ 14 trên thế giới. Trong đó, mật độ phân bổ dân cư khá cao : gấp 6 lần so với tiêu chuẩn quốc tế.
Như vậy, với thực trạng dân số Việt Nam như hiện nay, này đòi hỏi sự quan tâm phối hợp giải quyết ở mọi cấp độ nhằm hạn chế tình trạng tăng dân số với tốc độ chóng mặt, cũng như góp phần đưa dân số Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng ổn định.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status