Tài liệu Di truyền học quần thể - pdf 17

Download miễn phí Tài liệu Di truyền học quần thể



Mở rộng nguyên lý Hardy-Weinberg : Các gene liên kết trên X
Trong trường hợp các gene liên kết với giới tính, tình hình trở nên phức
tạp hơn rất nhiều. Ở giới đồng giao tử, mối quan hệ giữa tần số allele và
tần số kiểu gene tương tự như một gene autosome(gen trên NST thường),
nhưng ở giới dị giao tử chỉ có hai kiểu gene và mỗi cá thể chỉ mang một
allele. Để cho tiện, ta xét trư giới dị giao tử là giới đực. Bây giờ ta xét hai
allele A1và A2với tần số tương ứng là p và q, và đặt các tần số kiểu gene
như sau:



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ng về mặt di truyền ở các quần thể
nhỏ và dần dần dẫn tới sự cách ly sinh sản trong quá trình tiến hóa của
loài. Và sự biến động di truyền có thể là nguyên nhân làm cho mức dị
hợp tử thấp quan sát được ở một số loài có nguy cơ bị diệt vong.
Tác động của đột biến lên thành phần di truyền của quần thể
Đột biến (mutation) có nhiều loại khác nhau như đã được trình bày ở các
chương 3 và 8; ở đây chúng ta chỉ đề cập đến vai trò, tính chất và áp lực
của các đột biến gene tự phát đối với quá trình tiến hóa và chọn lọc. Phần
lớn đột biến mới xuất hiện có hại cho cơ thể
Đột biến là nguồn cung cấp chủ yếu các biến dị di truyền mới trong một
quần thể-loài, vì vậy nó được xem là một quá trình quan trọng đặc biệt
trong di truyền học quần thể. Nói chung, phần lớn đột biến mới xuất hiện
là có hại, một số đột biến là trung tính và chỉ một số ít là có lợi cho bản
thân sinh vật. Theo thuyết trung tính (Kimura 1983), đại đa số các biến
đổi tiến hóa ở cấp độ phân tử được gây nên không phải bằng chọn lọc
Darwin mà bằng sự cố định ngẫu nhiên các thể đột biến trung tính hay
hầu như trung tính về mặt chọn lọc; áp lực đột biến và biến động di
truyền ngẫu nhiên chiếm ưu thế trong sự biến đổi tiến hóa ở cấp độ phân
tử.
Để xét xem hiệu quả của đột biến lên sự biến đổi di truyền trong một
quần thể, ta xét hai allele A (kiểu dại) và a (gây hại) với tần số ban đầu
tương ứng là p và q; gọi u là tỷ lệ đột biến thuận từ A thành a cho một
giao tử mỗi thế hệ, và v là tỷ lệ đột biến nghịch từ a thành A. Các allele A
do đột biến thuận thành a đã làm tăng tần số của allele a lên một lượng là
up, trong khi đó tần số alllele a do đột biến nghịch có thể bị giảm đi một
lượng là vq. Như vậy, nhìn toàn cục thì sau mỗi thế hệ sự biến đổi trong
tần số của allele a (∆q) do đột biến là:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
∆q = up − vq
Trị số dương cực đại cho sự biến đổi này là u, khi p = 1 và q = 0 (nghĩa là
tất cả các allele đều là kiểu dại). Trị số âm cực đại là v, khi p = 0 và q = 1.
Tuy nhiên do các tỷ lệ đột biến u và v nói chung là nhỏ, nên sự biến đổi
được kỳ vọng do đột biến cũng rất nhỏ. Chẳng hạn, nếu ta cho u = 10-5, v
= 10-6 và q = 0,0, lúc đó:
∆q = (0,00001)(1,0) − (0,000001)(0,0) = 0,00001
Mặc dù đột biến chỉ gây một hiệu quả nhỏ trong tần số allele ở mỗi thế
hệ, nhưng nó lại có tầm quan trọng căn bản trong việc xác định mức độ
gây ra các bệnh di truyền hiếm. Trên thực tế, sự cân bằng giữa đột biến
(làm tăng tần số của allele bệnh) và chọn lọc (làm giảm tần số của allele
bệnh) có thể lý giải mức độ quan sát được của các bệnh như bạch tạng
chẳng hạn. Ngoài ra, đột biến cùng với sự biến động di truyền ngẫu nhiên
cho phép giải thích hợp lý cho số lượng lớn các biến đổi phân tử quan sát
được gần đây ở nhiều loài (xem Kimura 1983).
Tính toán hệ số nội phối
Có hai cách ước tính hệ số nội phối, đó là dựa vào các tần số kiểu gene
hay là dựa vào các phả hệ. Với phương pháp thứ nhất, ta ước tính hệ số
nội phối trong một quần thể tự nhiên bằng cách sử dụng biểu thức về tần
số các thể dị hợp đã cho ở trên. Qua đó ta có thể tìm ra biểu thức cho F
như sau:
H = 2pq – 2Fpq = (1 – F)2pq
1 – F = H/2pq
Suy ra F = 1 – (H/2pq)
Từ phương trình trên cho thấy hệ số nội phối (F) là một hàm của tỷ số
giữa mức dị hợp tử quan sát được (H) và mức dị hợp tử kỳ vọng (2pq).
Trường hợp có nội phối, H nhỏ hơn 2pq, vì vậy F > 0. Nếu như không có
thể dị hợp nào cả (H = 0), thì hệ số nội phối bằng 1.
Nhều loài thực vật có hệ thống giao phối bao gồm cả tự thụ phấn và giao
phấn tự do với các cá thể khác. Nếu như tỷ lệ tự thụ phấn cao, thì hầu như
tất cả các cá thể trong quần thể là các thể đồng hợp. Ví dụ, một quần thể
thực vật gồm ba kiểu gene AA, Aa và aa với các tần số tương ứng là P =
0,70, H = 0,04 và Q = 0,26. Ta có thể ước tính hệ số nội phối như sau :
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
Trước tiên, tính được các tần số allele A và a (p và q ):
p = 0,70 + ½ (0,04) = 0,72 và q = 1 – p = 0,28
Vậy hệ số nội phối F = 1 – ( 0,04/2 x 0,72 x 0,28 ) = 0,901
Trị số F ở đây rất cao, gợi ý rằng hầu hết quần thể này sinh sản bằng tự
thụ phấn và chỉ một số rất nhỏ là tạp giao.
· Phương pháp thứ hai để thu nhận hệ số nội phối cho đời con là từ một
phả hệ trong đó có xảy ra sự giao phối cận huyết (consanguineous
mating). Trong trường hợp này ta sử dụng một phả hệ để tính xác xuất
của các tổ hợp chứa các allele giống nhau về nguồn gốc ở đời con. Ví dụ,
ta hãy tính hệ số nội phối cho một đời con của hai anh chị em bán đồng
huyết (half-sibs), tức các cá thể sinh ra từ cùng một bố (hay mẹ). Hình
1a cho phả hệ về kiểu giao phối này, trong đó X và Y là hai anh em có
cùng mẹ nhưng khác cha. Người mẹ của X và Y được biểu thị là tổ tiên
chung (CA = common ancestor). Còn hai người cha không góp phần vào
hệ số nội phối được biểu diễn bằng các hình vuông trắng. Ở hình 1b, cùng
một phả hệ như thế nhưng biểu diễn theo một cách khác, bỏ qua các ký
hiệu cha mẹ còn các dấu quả trám biểu thị cho tất cả các cá thể, vì giới
tính không quan trọng trong việc xác định hệ số nội phối ở đây. Các mũi
tên trên hình vẽ chỉ hướng truyền từ bố mẹ đến con cái.
Hình 1 Phả hệ minh họa sự kết hôn giữa hai anh em bán đồng huyết,
X và Y. (a) với tất cả các cá thể; (b) không có bố. Ở đây CA = tổ tiên
chung, và đường kẻ đôi chỉ sự giao phối cận huyết.
Giả sử người mẹ (CA) có kiểu gene là Aa. Để tính hệ số nội phối, ta cần
phải biết xác suất mà đứa cháu của bà, Z, có kiểu gene AA hay aa, là
giống nhau về nguồn gốc đối với một trong hai allele của bà. Trước tiên
ta xét Z là AA, chỉ có thể xảy ra nếu như mỗi bên X và Y đều đóng góp
vào Z một giao tử chứa A. Xác suất của allele A trong X là xác suất mà
một allele A đến từ CA, hay ½. Vì xác suất truyền đạt allele A từ X sang
Z cũng là ½, nên xác suất kết hợp của hai sự kiện này là ½ x ½ = ¼ (qui
tắc nhân xác suất). Tương tự, xác suất để Z nhận được allele A từ Y là ¼.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered phiên bản -
Vì vậy xác suất của một đứa con AA nhận được allele A từ mỗi bên X và
Y là ¼ x ¼ = 1/16 hay 0,0625. Bằng phương pháp này ta tính được xác
suất của một đứa con có kiểu gene aa là 1/16. Như vậy xác suất toàn bộ
các tổ hợp có chứa các allele giống nhau về nguồn gốc ở Z lúc đó là 1/16
+ 1/16 = 1/8 hay 0,125 (qui tắc cộng xác suất ).
Để đơn giản, trong tính toán hệ số nội phối từ một phả hệ người ta đã đề
xuất một phương pháp gọi là kỹ thuật đếm chuỗi (chain-counting
technique). Một chuỗi đối với một tổ tiên chung cho trước bắt đầu với
một bố mẹ của cá thể nội phối, ngược trở lên phả hệ cho đến tổ tiên
chung, và trở lại với bố mẹ đó. Ví dụ, từ hình 12.1 ta lập được chuỗi đơn
giản X-CA-Y. S
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status