Tóm tắt Luận án Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản - pdf 17

Download miễn phí Tóm tắt Luận án Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản



Nhân dân Nhật Bản biến Phật giáo từmột tôn giáo hướng vào triết lý
và đạo lý cao siêu thành tôn giáo cầu nguyện cho ước vọng thoát khỏi
quan hệmất tựdo, sựlệthuộc đểvươn lên cái cao cả, cái tuyết đối.
Vềnhận thức luận và phương pháp tưduy: Phật giáo khi du nhập vào
Nhật Bản có những đặc điểm đặc thù, trong đó như đã nhận xét, nó gần gũi
với đời sống thếtục, đạo đức, thẩm mỹthếtục hơn là triết lý cao siêu.
Chính vì những lý do này mà logic học Phật giáo, kểcảhiện lượng và tỷ
lượng đềcó ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản,
đặc biệt là vềphương diện lối sống, nhận thức. Những ảnh hưởng đó cộng
với sựtiếp kiến văn hoá phương Tây đã có ảnh hưởng rất lớn đến sựphát
triển của tưduy người Nhật Bản, qua đó ảnh hưởng tới sựphát triển khoa
học và công nghệhiện đại ởNhật Bản hiện nay.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

bắc cầu…
Phật giáo thời kỳ Nara - Nại Lương (710 - 794)
8
Trong thời kỳ Nara, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa dạng.
Lúc này ở Nhật các tông phái Phật giáo chủ yếu: Thành thực tông (Jojisu
shù); Câu xá tông (Kusha shù); Luật tông (Ritsu shù); Hoa Nghiêm tông
(Kegon shù); Tam luận tông (Sanron shù); Pháp tướng tông (Hosso shù).
Mặc dù có những dị biệt, song các tông phái đó đều phản ánh sự khao khát
hướng tìm bản chất của vũ trụ; và để hướng đến nhận thức bản chất đó
phải giải phóng tư duy khỏi mê chướng bởi ảo ảnh của giác quan. Thêm
vào đó, chúng đều hướng con người tới những hoàn thiện mà trước hết là
đạo lý làm người.
Phật giáo thời kỳ Heian - Bình An (794 - 1185)
Kết thúc thời kỳ Nara, Nhật Bản diễn ra tình trạng rối loạn về xã hội,
đồi bại về chính trị do sự tranh giành quyền lực trong tầng lớp cầm quyền.
Nhưng vẫn xuất hiện thêm ba tông phái Phật giáo: Thiên Thai tông; Chân
Ngôn tông; Tịnh Độ tông.
Như vậy, trong thời Heian, Phật giáo ở Nhật Bản có sự phát triển.
Ngoài 6 tông phái đã có từ thời Nara, nay xuất hiện thêm nhiều tông phái
khác và cũng có sự phân hóa giữa Phật giáo quý tộc và Phật giáo dân gian.
Sự phát triển của Phật giáo một mặt, có sự nâng đỡ từ phía các tập đoàn
cầm quyền, do nó đã đáp ứng lợi ích cá nhân của những kẻ quý tộc muốn
tiến thân; mặt khác, tạo dựng được chỗ tựa về tư tưởng cho chính các
Thiên Hoàng. Cũng thông qua Phật giáo, văn minh của Trung Hoa được
du nhập, dù thời kỳ này quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Hoa càng về cuối
càng tỏ ra lạnh nhạt và không thể sánh với thời kỳ Nara. Sự xung đột giữa
các chùa, tu viện Phật giáo đã góp phần đẩy đất nước lâm vào tình trạng
nội chiến.
1.1.3. Phật Giáo Nhật Bản phát triển
Phật giáo thời kỳ Kamakura - Kiếm Thương (1185 - 1333)
Trong thời kỳ này, Phật giáo có hai khuynh hướng mới. Một mặt, quay
trở lại các tông phái của thời Nara; mặt khác là sự xuất hiện các tông phái
mới trong Thiền tông. Do ảnh hưởng của chiến tranh; do sự sa đọa của
tăng lữ; do quan hệ Nhật - Trung bắt đầu được thiết lập. Đồng thời, cũng
9
do nội chiến, tâm trạng con người bất an, … Những tác động trên đã làm
cho tín ngưỡng Phật giáo được phục hồi, các tông phái thời Nara: Hoa
Nghiêm tông; Pháp tướng tông; Luật tông; Tịnh Độ tông; Nhật Liên tông
được phục hưng, ngoài ra Thiền tông được du nhập và phát triển .
Sự phát triển của Thiền tông trong giai đoạn này đã đưa đến một sự
dung hợp mới giữa Nho, Phật và tư tưởng của tầng lớp võ sĩ đạo. Trong
thời kỳ Kamakura, Tịnh Độ tông, Nhật Liên tông và Thiền tông là ba dòng
Phật giáo mới trở thành các tông phái đặc sắc của Nhật Bản. Trong thời kỳ
Kamakura, có thể nói đã hình thành "Phật giáo Nhật Bản" bản xứ. Các vị
đại sư thời kỳ này, bắt đầu viết các tư tưởng của mình bằng tiếng Nhật.
Phật giáo thời Muromachi (1333- 1568) và Azuchi- Momoyama (1568 -
1600)
Đối với Phật giáo thời kỳ này có sự phát triển mạnh mẽ của Thiền
tông, Nhật Liên tông và Tịnh Độ tông. Cả ba tông phái trên đều có quan hệ
mật thiết với đời sống xã hội, trở thành trung tâm tinh thần - tôn giáo và cả
kinh tế của xã hội. Nhà chùa đã tiến hành hàng loạt hoạt động kinh tế, như
tổ chức các ngân hàng địa phương, kinh doanh dược liệu, quán trọ, phòng
tắm … Vì vậy thế lực kinh tế của các chùa, tu viện rất hùng hậu. Ngoài ra
chùa, tu viện còn trở thành các trung tâm học thuật. Nhà chùa kèm luôn
chức năng của nhà trường. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, dấu ấn của
Phật giáo cực kỳ sâu đậm.
Phật giáo thời kỳ Edo - Giang Hộ (1600 - 1868)
Mặc dù trong thời kỳ Muromachi và Azuchi - Momoyama, Phật giáo
tiếp tục có những bước phát triển mới; nhưng do đấu tranh nội bộ, xung
đột bạo lực giữa các tông phái gia tăng cũng như sự lạm dụng Phật giáo để
tăng cường quyền lực thế tục nên vào cuối thời kỳ này, Phật giáo sa sút.
Sự sa sút đó còn do sự lớn mạnh trở lại của tư tưởng Nho giáo, Thần đạo
và sự cạnh tranh của Cơ Đốc giáo (được du nhập vào Nhật năm 1549).
Thêm vào đó, do chính sách mới của giới lãnh chúa phong kiến nên Phật
giáo trở nên xơ cứng, thiếu sinh động và rơi vào trạng thái trì trệ.
10
Trong thời kỳ này, ngoài hai phái Thiền tông đã có từ thời
Muromachi (Tào Động và Lâm tế) còn xuất hiện thêm phái Thiền thứ ba là
Hoàng Bá.
Mặc dù việc nghiên cứu kinh điển, giáo lý Phật giáo có những tiến
triển, song ở thời kỳ này, do tư tưởng bị các Mạc Phủ khống chế nên tính
chất giáo điều của Phật giáo gia tăng. Lịch sử gọi Phật giáo thời này là
Phật giáo đọc kinh. Đây là thời kỳ truyền thống Thần - Phật hợp nhất dần
dần bị mai một, nhường chỗ cho sự khôi phục vị thế quốc đạo của Thần
đạo vào thời kỳ Minh Trị duy tân.
Phật giáo từ thời Meiji - Minh Trị
Trong những năm đầu thời kỳ Minh Trị, các tổ chức tôn giáo có sức
mạnh đáng kể trong chính phủ. Kiểu tổ chức tôn giáo như vậy không có vị
trí chính thức trong chính quyền, nhưng uy thế tôn giáo đối với Thiên
Hoàng vẫn là một thứ vũ khí đầy quyền lực. Những nghi thức cổ xưa liên
quan tới Thiên Hoàng đã được chính thức hóa trong Thần đạo. Do đó, Phật
giáo lâm vào một giao đoạn cực kỳ khó khăn. Để tồn tại, Phật giáo phải tự
thích nghi và đổi mới. Phật giáo trở thành thế lực cổ vũ cho chủ nghĩa đế
quốc đương thịnh hành ở Nhật Bản, và trở thành đồng minh của chủ nghĩa
"Đại Đông Á" của quân phiệt Nhật. Nhiều đảng phái chính trị của Phật
giáo hình thành mà lớn nhất là Sokagakkai (Sáng giá học hội) (1945), có
liên hệ với Kômeitô (Đảng Công Minh) với trên 10 triệu tín đồ.
Quá trình tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, ở thời kỳ từ sau Minh Trị,
nhất là bước vào đầu thế kỷ 20, đã xuất hiện hàng loạt tông phái, hội đoàn
của các tôn giáo. Riêng Phật giáo, theo thống kê niên giám Tôn giáo xuất
bản năm 1950, đã từ 13 tông, 56 phái tăng vọt lên 162 phái. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản bị quân đồng minh chiếm đóng. Chính
sách tự do tín ngưỡng đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các tôn giáo
ngoài Thần đạo như Phật giáo, Tin lành, nhiều hiện tượng tôn giáo mới nổi
lên như Ômoto, Aum….
Trong Phật giáo, lần đầu tiên đã có tổ chức thống nhất lấy tên là Hội
Liên hiệp Phật giáo theo kết quả của đại hội họp năm 1915 (năm thứ 4 Đại
11
Chính). Đại hội này đã thông qua hai Nghị quyết về vấn đề tham chính và
xác lập hành chính tôn giáo. Một xu hướng khác của Phật giáo ở Nhật Bản
từ sau Minh Trị (1912) là phát tán ra nước ngoài.
Tóm lại, có thể nói rằng so với một số nước khác trong khu vực, thời
điểm Phật giáo du nhập vào Nhật Bản muộn hơn. Nhưng nhờ sự nâng đỡ
của chính quyền mà Phật giáo có quá trình phát triển khá liên tục, nên
nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớn của Nhật Bản. Phật giáo được du
nhập vào Nhật Bản chủ yếu từ Trung Hoa và Triều Tiên. Vì lẽ ấy, Phật
giáo Nhật Bản mang đậm dấu vết của văn h
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status