Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam - pdf 17

Download miễn phí Luận văn Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam



Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ phần lớn thực hiện theo chương trình kiểm tra của NHNo&PTNT Việt Nam. Ngoài ra, trong trường hợp phát hiện những rủi ro tiềm ẩn, bộ phận kiểm tra kiểm toán nội bộ thực hiện việc kiểm tra, đánh giá và đưa ra những dự báo cho khoản vay. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động kiểm soát cũng còn rất nhiều hạn chế, như quản lý một khối lượng tín dụng khá lớn với mạng lưới rộng nhưng chỉ có 4 viên chức chuyên trách. Các cán bộ kiểm soát kiêm nhiệm thực thi nhiệm vụ kiểm soát chưa đi sâu vào từng mảng nghiệp vụ nên chất lượng kiểm tra, kiểm soát chưa cao. Hoạt động kiểm soát chưa thực sự chặt chẽ và có chất lượng, chưa đi sâu kiểm tra phân tích khoản vay để cảnh báo và đưa ra những yêu cầu cho ngăn ngừa rủi ro.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Ngắn hạn
11.958
17.849
10.953
27.637
23.158
Trung, dài hạn
2.724
5.938
13.496
4.505
2.787
Nguồn: NHNo&PTNT Quảng Nam - Báo cáo tổng kết qua các năm
Bảng 2.5 cho thấy tình hình nợ xấu diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng do các khoản nợ khắc phục thiên tai đến hạn và ngân hàng thực hiện việc chuyển nợ theo Quyết định 1627/2002 QĐ-NHNN, nên các khoản nợ xấu được phản ánh đầy đủ hơn.
Biểu đồ 2.4: Tình hình nợ xấu phân tích theo thời hạn tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam
Nhìn biểu 2.4 có thể thấy rõ nợ xấu tập trung ở tín dụng ngắn hạn, nợ xấu trung, dài hạn chiếm tỉ trọng nhỏ. Thực tế này thể hiện đặc điểm của tín dụng trung dài hạn thường có các kỳ hạn kéo dài trong nhiều năm nên không phản ánh đầy đủ trong thống kê ngắn hạn của Ngân hàng.
Bảng 2.6: Thực trạng nợ xấu phân theo thành phần kinh tế ở NHNo&PTNT Quảng Nam
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng nợ xấu
14.682
23.787
24.449
32.142
25.945
Doanh nghiệp Nhà nước
359
4.925
5.189
219
536
Doanh nghiệp NQD
80
0
0
22.245
20.887
Hộ cá thể
14.243
18.862
19.260
9.678
4.522
Nguồn: NHNo&PTNT Quảng Nam - Báo cáo tổng kết qua các năm
Biểu đồ 2.5: Tình hình nợ xấu phân tích theo thành phần kinh tế ở NHNo&PTNT Quảng Nam
Qua biểu đồ 2.5, có thể thấy nợ xấu ở thành phần kinh tế hộ giảm mạnh từ năm 2004, 2005. Chi nhánh cũng đã có nhiều biện pháp tích cực để giảm thấp nợ quá hạn tại khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đáng lưu ý là nợ xấu ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng đột biến. Nguyên nhân của tình trạng này là do chi nhánh chuyển nợ quá hạn khoản vay của công ty TNHH Lý Hồng King.
2.1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến RRTD ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam
a. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Lũ lụt liên tiếp trong 2 năm 1998,1999 được coi là những cơn lũ khủng khiếp nhất từ hàng chục năm trước đó, hậu quả để lại thật nặng nề cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn. NHNo&PTNT Quảng Nam đã cho vay khắc phục hậu quả thiên tai với chính sách ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ. Khoản nợ chưa thu hồi được thuộc loại này là hơn 17 tỉ đồng, dược xếp vào hạng nợ khó thu hồi.
Dịch bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm đã có ảnh hưởng rất lớn đến người chăn nuôi. Mặc dù Quảng Nam không phải là tâm điểm vùng dịch, nhưng dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng cũng đã để lại nợ quá hạn lên đến 700 triệu đồng. Ngoài ra, tại Quảng Nam, nơi có nhiều vùng nuôi trồng thuỷ sản, nhất là giống tôm sú, dịch tôm cũng là mối nguy cơ thường xuyên đối với người sản xuất và cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của ngân hàng.
Vụ hoả hoạn tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long đã gây thiệt hại đối với phần lớn tài sản thế chấp, cầm cố tại ngân hàng. Tài sản đã được mua bảo hiểm tại Bảo Minh. Do không được Bảo Minh chấp nhận bồi thường, công ty đã phải khởi kiện ra toà án. Qua 2 lần xét xử, Toà phúc thẩm đã buộc Bảo Minh phải bồi thường cho công ty Hoàng Long. Tuy nhiên, thời gian điều tra và xét xử kéo dài hơn 4 năm đã ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn vay của ngân hàng.
b. Nguyên nhân thuộc về người vay vốn
- Do năng lực, trách nhiệm quản lý của người vay vốn: Trong chương trình 5 triệu tấn đường/năm của Chính Phủ, Quảng Nam đã thành lập nhà máy đường để thực hiện mục tiêu này. Đầu tư cho Công ty Mía đường để xây dựng vùng nguyên liệu tại địa phương, NHNo&PTNT Quảng Nam đã cho công ty vay 22 tỷ đồng để trồng mới và thu mua nguyên liệu chế biến. Tuy nhiên, do cung cách quản lý quan liêu, chèn ép người trồng mía của bộ phận nông vụ, của bộ phận thu mua, đánh giá chất lượng cây mía không đúng thực tế, cùng với năng lực quản lý kém của Ban lãnh đạo nhà máy, nên đã gây ra sự bất bình trong người trồng mía, nông dân đã phá bỏ cây mía để trồng loại cây khác, nhà máy gặp khó khăn về nguyên liệu, phải thu mua nguyên liệu từ các tỉnh lân cận, trong khi giá đường ngày càng giảm thấp, dẫn đến tình trạng lỗ ngày càng gia tăng và nợ quá hạn phát sinh lớn. Đến nay, công ty đã tuyên bố phá sản.
Nước dứa cô đặc là một sản phẩm được ưa thích ở các nước châu Âu, với thị trường tiêu thụ rộng lớn và đầy tiềm năng. Công ty Xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến Đà Nẵng đã xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm này tại Quảng Nam. Do bị tác động của hậu quả mía đường, người dân không tin lắm vào cây dứa, vì vậy công ty phải tự khai hoang trồng dứa và giao khoán cho nông dân để chủ động nguồn nguyên liệu. Thế nhưng, với diện tích trồng dứa do công ty thực hiện cũng chỉ đảm bảo cho nhà máy dứa hoạt động khoảng 30% công suất. Qua 2 năm hoạt động cầm chừng, đến nay, nhà máy dứa đã ngừng hoạt động hoàn toàn để lại khoản nợ tồn đọng là 6 tỷ đồng.
- Do doanh nghiệp thiếu vốn hoạt động kinh doanh gây nên công nợ khó đòi: Vốn tự có của các doanh nghiệp ở Quảng Nam rất thấp, vốn vay ngân hàng là lượng vốn chủ yếu trong hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng. Nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng tại một tỉnh mới được chia tách như Quảng Nam là rất lớn trong khi đó nguồn thu ngân sách tại địa phương rất hạn hẹp. Để có được hợp đồng, các công ty xây dựng đã phải dùng toàn bộ vốn vay để thi công và ngân sách địa phương không thể thanh toán đúng hạn, thường kéo dài rất nhiều năm, dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp trong ngành xây dựng phải ngừng sản xuất, không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Nợ xấu trong lĩnh vực này lên đến 10 tỉ đồng...tồn đọng trong các công ty thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5, Công ty Xây dựng Quảng Nam.
- Do khách hàng cố ý lừa đảo: Nguyên nhân này có thể gắn cho hành động của Công ty trách nhiệm hữu hạn Lý Hồng King và đúng theo nhận định của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam là “ Có dấu hiệu lừa đảo”. Hoạt động trong lĩnh vực chuyên sản xuất phụ tùng, động cơ, lắp ráp xe máy, Công ty Lý Hồng King đã chiếm dụng vốn của nhiều doanh nghiệp và tổ chức tín dụng với số vốn rất lớn. Khoản vay 22 tỉ tại NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam đã được khởi kiện ra toà nhưng đến nay vẫn chưa thu hồi được.
- Do nguyên nhân khác: Đó là một số trường hợp khách hàng gặp rủi ro khách quan như bị lừa đảo, bị tai nạn, những rủi ro trong diện hẹp…Trong những trường hợp này, ngân hàng đã tăng cường giám sát, đôn đốc thu hồi nợ hay xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
2.1.2.3. Hậu quả rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam
a. Đối với NHNo&PTNT Quảng Nam
Rủi ro tín dụng đã để lại hậu quả nặng nề cho NHNo&PTNT Quảng Nam, cụ thể như làm cho lợi nhuận đạt được trong năm gặp RRTD thấp hơn năm trước, thậm chí dẫn đến kết quả kinh doanh lỗ như trong năm 2005 do phải trích lập dự phòng và xử lý rủi ro quá lớn. Thu hồi nợ đã đã được NHNo&PTNT Quảng Nam chú trọng nhưng mức độ thu hồi được vẫn còn rất thấp.
b. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
Cho vay khắc phục hậu quả thiên tai và dư nợ cho vay nhà máy đường là những khoản rủi ro lớn nhất của NHNo&PTNT Việt Nam. ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status