Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước - pdf 18

Download miễn phí Tiểu luận Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước



Khi nghiên cứu về tổ chức thị tộc ở Hy Lạp ở châu Âu thì Ph.Ăngghen cũng có một nhận định trong tổ chức thị tộc bộ lạc Iroqua ở châu Mỹ ở rất xa cả về không gian và thời gian so với thị tộc Hy Lạp ở châu Âu nhưng cũgn có tổ chức tương tự như nhau; nó cũgn có những tính ưu việt tương tự như tổ chức thị tộc Iroqua. Cụ thể là trong xã hội ấy cũng chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và mọi thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng, tự do nhưng tổ chức thị tộc Hy Lạp đã phát triển cao hơn so với xã hội thị tộc Iroqua mà cụ thể là quyền bình đẳng ấy "đã phát triển lên đến mức trở thành một đại hội thực sự của nhân dân". Đại hội này cũng do một hội đồng là cơ quan quyền lực thường trực triệu tập để "quyết định những công việc quan trọng. Quyết định được thông qua bằng cách giơ tay hay bằng cách hoan hô. Đại hội nhân dân có quyền tối hậu quyết định" [Sđd, tr.159]. Song thị tộc ấy cũng tất yếu bị diệt vong theo quy luật.Ăngghen đã phân tích một loạt các nguyên nhân làm tan rã của xã hội thị tộc Hy Lạp đó.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ể cả trong môi trường đạo thiên chúa hay đạo Tin lành thì hôn nhân trong chế độ tư sản "... đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên, vì vậy hôn nhân luôn l uôn là hôn nhân có tính toán... hôn nhân có tính toán đó thường thường biến thành sự mãi dâm tư liệu nhất - có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường nhất là về phía người vợ. Nếu ở đây người đàn bà có khác với gái đĩ thường thì chỉ là vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán sức lao động của mình, mà là bán mãi mãi, như một nữ nô lệ" [Sđd, tr.112]. Ngay trong đạo thiên chúa cha mẹ vẫn tìm vợ cho con, lựa chọn người vợ xứng đáng và vì thế đã dẫn đến kết quả "làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất: chế độ hệ ta-ia về phía người chồng là chế độ hệ ta-ia bừa bãi, về phía vợ là ngoại tình lu bù" [Sđd, tr.111]. hay như trong đạo Tin lành, việc người con trai ít nhiều đều lựa chọn vợ trong cùng giai cấp thì chế độ hệ ta-ia của người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn, và tệ ngoại tình của vợ cũng ít thành lệ hơn song "cũng chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn nặng chĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình" [Sđd, tr.112]. Theo quan niệm của giai cấp tư sản, hôn nhân là một hợp đồng, một công việc có tính pháp lý.
Không chỉ lên án xã hội tư sản và những thối nát của giai đoạn do chế độ tư bản sinh ra, Ph.Ăngghen còn nêu ra những quan điểm về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong xã hội tương lai "... lần đầu tiên... chúng ta có được tình yêu cá thể, hiện đại giữa trai và gái trước kia chưa hề thấy trên thế giới" [Sđd, tr.120]. Tình yêu ấy là sự tự nguyện của cả người đàn ông và người đàn bà. Đó chính là điều kiện cho sự bình đẳng nam nữ trong mối quan hệ này. "Về mặt này người đàn bà là người ngang hàng với người đàn ôgn" [Sđd, tr.109]. Tình yêu nam nữ ấy phải được thử thách qua thời gian và nó tạo ra sức mạnh vượt qua những khó khăn cản trở trên con đường đi tới hôn nhân. Và một khi không tiến hành được hôn nhân thì đó "là một điều đau khổ lớn" [Sđd, tr.120].
Với bản chất không chia sẻ, tình yêu là cơ sở cho hôn nhân một vợ một chồng, và cũng chỉ có hôn nhân như vậy thì tình yêu mới được duy trì và tình yêu như thế, hôn nhân như thế mới là hợp đạo đức. Trong xã hội tương lai ấy, thế hệ mới sẽ lớn lên, họ được tự do yêu đương chính đáng, tự lựa chọn bạn đời: "Một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hay dùng những phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào khác ngoài tình yêu chân chính, hay phải từ chối không dám hiến mình cho người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó" [Sđd, tr.120]. Thế hệ mới ấy sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm của xã hội cũ buộc họ phải làm bởi họ tự biết cần làm thế nào để chọn lựa người bạn đời để tạo ra một gia đình một vợ một chồng đúng với nghĩa của nó. Như vậy, rõ ràng là kết hôn và tình yêu là quyền của con người, hơn nữa không những là quyền của đàn ông mà còn là quyền của đàn bà - sự bình đẳng trong hôn nhân giữa nam và nữ. Trong quá trình phân tích bản chất tình yêu và gia đình một vợ một chồng xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, Ph.Ăngghen cũng có quan điểm tán thành giải quyết ly hôn khi hạnh phúc gia đình thật sự không còn nữa. Ông coi đó là điều cần thiết cho cả người đàn ông và người đàn bà và cho cả xã hội, là biểu hiện của đạo đức và là một quy tắc trong quan hệ vợ chồng mới: "Nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hay bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội. Chỉ cần tránh cho người ta khỏi sa chân vô ích vào vũng bùn kiện tụng để ly hôn mà thôi" [Sđd, tr.128].
Để xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết tất yếu làm cơ sở cho chế độ một vợ một chồng được thực hiện trọn vẹn. Ông viết "hiện nay chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ một chồgn cũng như cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm đều nhất định sẽ bị tiêu diệt. Các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì độ lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất và đồng thời cũng sẽ không còn tình trạng m ột số phụ nữ... cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành một hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa" [Sđd, tr.118].
Ph.Ăngghen phân tích rằng cùng với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thực hiện công hữu hóa các tư liệu sản xuất và sự phát triển của nền đại công nghiệp sẽ tạo điều kiện giải phóng người phụ nữ, xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng hòa thuận. Ông viết: "... đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường vận động và vào công xưởng, và thường biến họ thành cột trụ của gia đình, thì trong gia đình người vô sản, những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã mất mọi cơ sở..." [Sđd, tr.115]. Thật vậy , chỉ có nền công nghiệp hiện đại là nền công nghiệp không những thu nhận vận động của phụ nữ trên quy mô lớn mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có vận động phụ nữ và ngày càng có xu hướng biến vận động tư nhân của gia đình thành vận động ngành công nghiệp công cộng. "Cái sẽ biến mất đi một cách rất chắc chắn trong chế độ một vợ một chồng chính là tất cả những đặc trưng mà những quan hệ tài sản đẻ ra nó, đã ăn lên nó. Những đặc trưng đó là: thứ nhất là sự thống trị của người đàn ông, và thứ hai là tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân" [Sđd, tr.130]. Khi gia đình một vợ một chồng phát triển hơn nữa sẽ là một bước tiến đến gần sự hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ, giống như điều Moóc gan đã viết: "Gia đình một vợ một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt đầu thời kỳ văn minh và được cải tiến rất rõ rệt trong thời kỳ cận đại... hình thức đó còn có thể được cải tiến thêm nữa, cho tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ" [Sđd, tr.132]. Quan điểm tiến bộ này của Moóc gan đã được Ph.Ăngghen tiếp nhận để phát triển quan điểm tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Hai là: Nguồn gốc ra đời và tiêu vong của chế độ tư hữu và giai cấp
Trong tác phẩm "Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước". Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản của quá trình ihình thành phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp là do sự phát triển của sản xuất và sự phân công lao động xã hội. "Việc thuần dưỡng súc vật và việc chăn nuôi các bầy gia súc đã toạ ra những nguồn của cải chưa từng thấy và đã toạ ra những quan hệ xã hội hoàn toàn mới"...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status