Một số giải pháp mở rộng thị trường thẻ thanh toán tại Ngân hàng cổ phần Nhà Hà Nội - pdf 18

Download miễn phí Chuyên đề Một số giải pháp mở rộng thị trường thẻ thanh toán tại Ngân hàng cổ phần Nhà Hà Nội



Để thấy được mức độ sử dụng thẻ của khách hàng theo vùng hay mức độ hoạt động dịch vụ thẻ hay mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở từng vùng, ta có bảng số liệu thống kê doanh số giao dịch theo 4 vùng địa phương có chi nhánh và điểm giao dịch của Habubank: Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, TP.Hồ Chí Minh. Trong 4 vùng, Hà Nội là địa phương luôn có doanh số giao dịch cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 57,78% tổng doanh số giao dịch thẻ), xếp thứ 2 là TP.Hồ Chí Minh (32,30% tổng doanh số giao dịch), tiếp theo là Quảng Ninh (5,9%), và cuối cùng là Bắc Ninh (3,99%). Tình hình này chịu cả sự tác động khách quan và chủ quan của nhiều nhân tố. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương lớn, có số dân cư đông đúc, có thu nhập bình quân và trình độ dân trí thuộc hàng cao nhất cả nước, vì vậy mà nhu cầu về sử dụng thẻ cao. Quảng Ninh những năm trở lại đây là vùng kinh tế phát triển với ngành khai thác than và du lịch, thu nhập người dân được cải thiện rõ rệt dẫn đến sự tăng lên về nhu cầu sử dụng thẻ, còn Bắc Ninh thì lại không có những điều kiện khách quan thuận lợi như vậy. Bên cạnh đó, về mặt chủ quan Hà Nội là nơi được đầu tư nhiều nhất về cơ sở hạ tầng, là nơi đặt hội sở, cùng với 7 chi nhánh, phòng giao dịch và Trung tâm thẻ là đầu não mọi hoạt động về thẻ trên toàn quốc nên có lợi thế hơn bất cứ địa phương nào. Hơn nữa, Hà Nội cũng là nơi triển khai mạnh mẽ nhất các chương trình cũng như trong việc đưa ra các biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh thẻ.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tiền mua hàng hoá, dịch vụ, trả nợ thay cho tiền mặt.
Máy cấp phép tự động (POS) là một thiết bị điện tử được trang bị cho các cơ sở chấp nhận thẻ để trực tiếp xin cấp phép từ các trung tâm cấp phép khác nhau trên thế giới, giúp các thương vụ được thực hiện trong 24h.
Mạng lưới máy ATM và CSCNT là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh thẻ. Mạng lưới ATM và POS của một ngân hàng sẽ thể hiện tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ và mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng của ngân hàng đó.
Đối với Habubank, thì tại mỗi CSCNT của Ngân hàng sẽ được trang bị một máy POS, vì vậy khi chúng ta nói đến số lượng máy POS thì cũng đồng nghĩa đó là số lượng CSCNT.
Hiện tại, Habubank có tất cả là 15 máy ATM trên toàn quốc, trong đó tại Hà Nội là 10 máy, Quảng Ninh 2 máy, Bắc Ninh 1 máy và TP.Hồ Chí Minh 2 máy. Và hầu như tất cả (13 máy) đều được lắp đặt tại hội sở, chi nhánh hay các phòng giao dịch.
Giai đoạn đầu do tính chất thử nghiệm nên số máy ATM chỉ là 2 máy, được lắp đặt tại hội sở ở Hà Nội và chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh. Tiếp sau đó, 6 tháng sau, lắp thêm 1 máy ở Hà Nội, 1 máy ở Quảng Ninh và 1 máy ở Bắc Ninh. Đến 6 tháng đầu năm 2005 lắp thêm 4 máy tại các chi nhánh ở Hà Nội, và 1 máy tại phòng giao dịch Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh. Đến 6 tháng cuối năm 2005, lắp 1 máy tại Quảng Ninh và 4 máy tại Hà Nội. Việc lắp đặt này được thực hiện dựa trên những khảo sát về nhu cầu sử dụng thẻ tại địa phương và chiến lược phát triển của Habubank.
Về CSCNT, giai đoạn đầu do chưa có uy tín và số lượng thẻ phát hành thấp, các địa điểm kinh doanh chưa thấy được lợi ích từ việc lắp đặt POS nên chưa ký hợp đồng là CSCNT với Habubank. Tuy nhiên tình hình đã dần được cải thiện vào thời gian sau đó, 6 tháng cuối năm 2004, ký hợp đồng và lắp đặt POS cho 15 CSCNT đầu tiên, 6 tháng sau lắp thêm 34 POS, 6 tháng cuối năm 2005 lắp thêm 41 POS. Tốc độ tăng không đồng đều. Tuy nhiên đây là dấu hiệu cho thấy uy tín của Habubank đã tăng dần đồng thời hoạt động kinh doanh thẻ cũng sẽ có những bước phát triển mới.
Bảng 13: Số lượng ATM và POS của Habubank đã lắp đặt
Loại máy
30/6/2004
31/12/2004
30/6/2005
31/12/2005
Tổng
Số lượng
Tốc độ tăng (%)
Số lượng
Tốc độ tăng (%)
Số lượng
Tốc độ tăng (%)
Số lượng
Tốc độ tăng (%)
ATM
2
-
3
150
5
66,67
5
0
15
POS
-
-
15
-
34
126,67
41
20,59
90
Mạng lưới ATM được lắp đặt ở nhiều nơi nhằm giúp cho khách hàng thực hiện các được các giao dịch trên thẻ mà không cần trực tiếp đến hội sở, các chi nhánh hay phòng giao dịch. Nhưng hiện nay, hầu hết các máy ATM của Habubank đều được lắp đặt tại hội sở, chi nhánh, phòng giao dịch, nên đã triệt tiêu sự thuận tiện của khách hàng về mặt địa điểm. Với số lượng ít ỏi và không gian hẹp như vậy, mạng lưới ATM của Habubank so với các một số ngân hàng khác là rất thiếu năng lực cạnh tranh: Vietcombank là 487 máy, có mặt tại 33 tỉnh thành phố tại Việt Nam và sang tận cả nước bạn Lào, ngay trong hệ thống VNBC thì Ngân hàng Đông Á (EAB) và Ngân hàng Sài Gòn Công Thương (SGBANK) cũng có số lượng máy áp đảo, theo đó EAB có 191 máy , có mặt tại 23 tỉnh thành phố trọng điểm, SGBANK có 40 máy, đặt tại 6 tỉnh thành phố. Đây thực sự là một hạn chế rất lớn ảnh hưởng đến việc mở rộng thị trường thẻ của Habubank.
Sau khi tham gia vào liên minh thẻ (VNBC), thẻ Habubank Vantage đã có thể thực hiện giao dịch tại hơn 246 máy ATM của liên minh, tuy nhiên bất lợi đối với Habubank chính là việc khách hàng thẻ của Habubank mất phí cao hơn khi thực hiện giao dịch trên các máy ATM của các ngân hàng khác trong liên minh. Vì vậy, khi thực hiện sự lựa chọn, bỏ qua các yếu tố khác, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm thẻ của ngân hàng có số lượng máy ATM nhiều nhất trong liên minh chứ không phải là thẻ của Habubank.
Mạng lưới CSCNT (POS) của Habubank cũng mới chỉ có tại Hà Nội với số lượng là 90 nhưng chỉ có 12 CSCNT là có sự ưu đãi (giảm giá, tặng quà…) cho khách hàng. Điều này là cực kỳ bất lợi cho Habubank, đặc biệt tại các địa phương như TP.Hồ Chí Minh, một thành phố sôi động với rất nhiều các hoạt động trao đổi mua bán và cơ sở kinh doanh, và Quảng Ninh nơi có tiềm năng du lịch với mức tiêu dùng từ khách du lịch là rất cao. Cũng tại những địa phương này, đã có hàng trăm đến hàng ngàn CSCNT của các ngân hàng lớn khác. Do vậy, Habubank sẽ thực sự khó khăn khi muốn thu hút thêm khách hàng ở những nơi này khi mà đang có những khoảng trống lớn về mạng lưới CSCNT.
2.3. Doanh số giao dịch thẻ
Doanh số giao dịch thẻ là một chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện mức độ sử dụng thẻ của khách hàng và mức độ hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Mà mức độ sử dụng thẻ của khách hàng cao hay thấp sẽ là thước đo cho thấy sự yêu thích và tin tưởng của họ đối với việc sử dụng sản phẩm cũng như những dịch vụ gia tăng mà sản phẩm thẻ đem lại cho khách hàng.
Doanh số giao dịch thẻ bao gồm có doanh số rút tiền, doanh số thanh toán, và doanh số chuyển khoản. Doanh số rút tiền là số tiền mặt mà khách hàng rút ra thông qua máy rút tiền tự động ATM hay máy POS. Thông thường đây là doanh số chiếm tỷ trọng lớn nhất do các hình thức khác chưa có nhiều điều kiện để phát triển.
Doanh số thanh toán là số tiền được thanh toán cho các hoạt động giao dịch khác của khách hàng như mua thẻ cào, thanh toán các loại hoá đơn, thanh toán cho các hoạt động mua sắm, chi tiêu tại các CSCNT thông qua mạng lưới ATM và POS.
Doanh số chuyển khoản là số tiền được lưu chuyển qua các tài khoản của Ngân hàng theo yêu cầu của chủ thẻ.
Doanh số giao dịch thẻ của Habubank sẽ được phân chia theo hai hình thức, đó là phân chia theo mẫu mã thẻ và phân chia theo vùng, tương tự như hình thức phân chia của tổng số thẻ phát hành.
Xét về tổng thể, doanh số giao dịch liên tục tăng qua các thời điểm với tốc độ tăng khá cao. Sáu tháng đầu năm 2004, tổng doanh số giao dịch là 251.147.000VND, 6 tháng đầu năm 2005 là 583.592.000VND, tăng 132,37%, 6 tháng đầu năm 2005, tổng doanh số giao dịch là 11.200.749.000VND, tăng 1819,28%; đây được coi là giai đoạn có tốc độ tăng lớn với tác động từ việc Habubank đưa ra các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho chủ thẻ mới và việc thực hiện liên kết dọc với Vietcombank đem lại. Sau giai đoạn này tốc độ tăng trở lại ổn định nhưng vẫn ở mức cao là 358,81% với tổng doanh số giao dịch đạt 51.370.526.000VND, thời gian này là thời điểm Habubank huỷ bỏ liên kết dọc với Vietcombank để gia nhập hệ thống VNBC, đồng thời đưa ra nhiều chương trình chăm sóc khách hàng như gia tăng dịch vụ, tặng thẻ ATM, tích luỹ điểm nhận quà. Sự tăng trưởng này là dấu hiệu rất đáng khích lệ cho thấy hoạt động đầu tư của Ngân hàng vào sản phẩm này bắt đầu đem lại những kết quả khả quan như đã được dự báo. Tuy nhiên nếu so với tổng doanh số giao dịch của một số ngân hàng khác và của cả nước thì Habubank vẫn được coi là rất hạn chế. Tại sao lại nói vậy thì bảng 14 thống kê về tổng doanh số giao dịch luỹ kế dưới ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status