Hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Singapore - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Singapore



Kim nghạch buôn bán hai nước năm 2000 có xu hướng tăng so với năm 1999. Theo thống kê của TCHQ Việt Nam, 6 tháng đầu năm mặc dầu kim nghạch đứng thứ hai sau Nhật Bản nhưng so cùng kỳ năm 1999 tăng 45,3% đạt 17,3 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu tăng 19,4%, nhập khẩu tăng 57% nhưng Singapore vẫn là thị trường có kim nghạch buôn bán với ta đứng thứ hai sau Nhật Bản, ước cả năm 2000 đạt trên 3 tỷ USD. Dự kiến năm 2001 cũng sẽ đạt mức như năm 2000.
Như trên đã trình bày, buôn bán với Singapore thực chất là buôn bán với hầu hết các khu vực thị trường lớn trên thế giới cho nên đây là một thị trường nhạy cảm mang đặc điểm hướng ngoại. Do vậy, những mặt hàng truyền thống của ta vào thị trường này cũng sẽ bị ảnh hưởng theo như dầu thô, gạo, cà phê, cao su .
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hoạt động thương mại Việt Nam-Singapore.
Phần I : lý luận chung về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế
I. Lý LUậN CHUNG Về THƯƠNG MạI QuốC Tế.
Từ xa xưa loài người đã ý thức được những lợi ích của hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các nước. Nói chung, người ta sớm tìm thấy những lợi ích trên thực tế của thương mại quốc tế ra đời. Tuy vậy, các lý thuyết thương mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện ở đầu thế kỷ XV và được phát triển liên tục qua mấy trăm năm nay. Cũng như quá trình buôn bán được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, các lý thuyết khác nhau về thương mại quốc tế phản ánh những bậc thang vận động khác nhau về tư duy loài người è buôn bán quốc tế.
1. Theo chủ nghĩa trọng thương :
Xuất phát từ “chủ nghĩa trọng thương”. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa trọng thương thể hiện ở quan điểm cho rằng : Mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Chính là các chính phủ chứ không phải cá nhân (những người không đáng tin cậy) nên tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để tăng số của cải của mỗi nước. Của cải của mỗi nước được quan niệm là số kim loại tích luỹ được, đặc biệt là vàng. Lợi nhuận buôn bán, theo chủ nghĩa trọng thương là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lường gạt giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia “dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc kia”.
Nhận thức của chủ nghĩa trọng thương chứa đựng hai sai lầm cơ bản : Thứ nhất, quan niệm không đúng cho rằng chỉ có vàng (hay các kim loại quý) mới có giá trị thực sự trong khi trên thực tế chúng không thể sử dụng được cho cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương bỏ qua khái niệm hiệu quả sản xuất đạt được nhờ chuyên môn hoá.
Chủ nghĩa trọng thương mới khắc phục một phần sai lầm thông qua việc xem xét cán cân thương mại tổng thể có lợi hay bất lợi đối với tất cả các loại hàng hoá, nghĩa là các quốc gia phải cố gắng đạt được thặng dư trong cán cân thương mại để toàn bộ quy mô hoạt động xuất khẩu vượt qua quy mô hoạt động nhập khẩu. Nhìn chung, lý thuyết trọng thương đã sớm đánh giá được tầm quan trọng của thương mại quốc tế. Nó khác với trào lưu tư tưởng kinh tế phong kiến thời bấy giờ đề cao kinh tế tự cấp tự túc. Vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể điều chỉnh quan hệ buôn bán của một nước với nước khác đã được coi trọng. Tuy vậy, lý luận về thương mại quốc tế này còn đôn giản, ít tính chất lý luận, thường lập luận mang tính kinh nghiệm, chưa cho phép giải thích bản chất của thương mại quốc tế.
2. Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối
Bước sang giai đoạn mới đầu thế kỷ XVIII, năm 1776 trong tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc” Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi rằng vàng đồng nghĩa với của cải và quan niệm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hay từng bạn hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng gì.
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, toàn bộ công nghệ hay thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Lý thuyết này giải thích rằng tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và quốc gia khác bị thiệt hại từ thương mại thì họ từ chối ngay. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa. Tuy nhiên, ở đây có một số trường hợp đặc biệt phải loại trừ như khi bảo vệ một ngành công nghiệp non trẻ.
3. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối).
Quy luật về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) là một trong những ý tưởng vĩ đại của kinh tế học cổ điển Anh do David Ricardo đề xướng. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất (đó là hàng hoá không có lợi thế tương đối). Mô hình giản đơn của David Ricardo dựa trên 5 giả thiết :
- Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng. Mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng.
- Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước, nhưng không di chuyển giữa các nước.
- Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định.
- Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải.
- Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước.
Ví dụ : Lợi thế so sánh
Việt Nam
Singapore
Thép (kg/1 giờ công)
1
6
Vải (m/1 giờ công)
2
4
Như vậy, Singapore có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả 2 loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở nghành thép của Singapore gấp 6 lần của Việt Nam tnì năng suất lao động ở ngành dệt của Singapore chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải còn Singapore có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép.
Theo quy luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Singapore chuyên môn sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau.
II. chính sách thương mại quốc tế.
1. Khái niệm :
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó.
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đưa lại những lợi ích to lớn với nhiều lý do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách thương mại quốc tế riêng thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia. Do sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia nên khả năng và điều kiện tham gia vào thương mại quốc tế của mỗi nước là không giống nhau, trong khi đó yêu cầu và nhi
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status