Lý luận giá trị thặng dư và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam - pdf 19

Download miễn phí Tiểu luận Lý luận giá trị thặng dư và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam



Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời.
Tiếp đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các cách quản lí mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Lý luận giá trị thặng dư và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam
Như chúng ta đã biết, sau chính sách Đổi Mới năm 1986, kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tồn tại giái trị thặng dư trong nền kinh tế. Vậy giá trị thặng dư là gì ? Ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Việt Nam hiện nay như thế nào sẽ được trình bày sau đây.
I Tổng quan về giá trị thặng dư:
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Trong lưu thông hàng hóa gián đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo công thức: H – T – H, nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền rồi tiền lại chuyển hóa thành hàng hóa. Ở đây tiền không không phải là tư bản mà đơn thuần chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Cả hai sự vận động đều do hai gia đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đonạ đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán.
Nhưng đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó còn có những điểm khác nhau về chất: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H – T) và kết thúc bằng việc mua (T – H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngowjc lại, lưuu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T – H) và kết thúc bằng việc bán (H – T). Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là tiền ứng ra rồi thu về.
Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức T – H – T (tiền – hàng – tiền), tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa rồi hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng như trong lưu thông hàng hóa giản đơn theo công thức H – T – H mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T – H – T’, trong đó T’ = T + ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (ΔT) được C. Mác gọi là giá tị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.
Giá trị thặng dư do đâu mà có ?
C. Mác đã chỉ rõ: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thong. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. C. Mác chỉ rõ: “Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hóa làm cơ sở”.
Theo C. Mác: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể của một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
Theo thuyết giá trị về lao động, tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết tinh. Thế nhưng, nó không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
II Giá trị thặng dư và nền kinh tế Việt Nam:
Thực trạng:
Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên cách tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo điều 68 của bộ luật Lao Động.
Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối (tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ) và biến tấu của nó – giá trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó) vào nền kinh tế Việt Nam.
Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước, thậm chí là còn không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo nhu cầu của thị trường hay không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.
Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời.
Tiếp đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các cách quản lí mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ.
Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế). Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở thành nhu cầu cấ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status