Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đánh giá thực trạng và giải pháp - pdf 19

Download miễn phí Tiểu luận Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đánh giá thực trạng và giải pháp



Những doanh nghiệp cổ phần là những “trí nghiệp” có tương lai rực rỡ trong kinh tế tri thức. Với giá trị chất xám của mình, những “trí nghiệp” có tác dụng giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đương nhiên, mọi doanh nghiệp đều phải tiếp cận những thành tựu của cách mạng tin học, từng bước góp phần xây dựng và phát triển kinh tế tri thức, nhằm mở rộng sản xuất, kinh doanh theo hướng hiện đại.
Từ sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, trong nhiệm vụ cổ phần hóa DNNN, vai trò chủ sở hữu của người lao động trong doanh nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng, là cốt lõi trong tư duy mới về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, hay về công hữu của chủ nghĩa xã hội.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Mục lục
A/ Mở đầu
B/ Nội dung
Lý luận chung
Đánh giá về thực trạng
Giải pháp
C/ Kết luận
A/ Mở đầu
Thống kê của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho thấy, sau cổ phần hóa, quy mô, hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp hầu hết đều tăng rõ rệt. Vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số công ty CPH làm ăn có lãi, nộp ngân sách nhà nước tăng 24,9%, cô tức bình quân đạt hơn 17% năm.
Từ năm 1992 đến nay, cả nước đã có trên 1000 doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) được chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá gần 900 doanh nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh.
Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992. Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Song do chưa có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và chưa có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến hết năm 1997, cả nước mới có 38 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa.
Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bổ ở khắp các vùng, miền trong cả nước.
B nội dung
I. Lý luận chung
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Qua khảo sát hơn 400 doanh nghiệp cổ phần hoá ở 15 tỉnh, thành phố, doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp này tăng trung bình 20%, thu nhập của người lao động tăng 21%.
Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hoá đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng vẫn chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Đây là nguyên nhân chính làm cho các doanh nghiệp Nhà nước trong diện cổ phần hoá còn băn khoăn và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá gặp không ít vướng mắc. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn tài chính để xử lý công nợ cho doanh nghiệp khi cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp chưa phù hợp với cơ chế thị trường, thiếu công khai minh bạch trong cổ phần hoá đã làm cho tiến độ cải cách doanh nghiệp chậm hơn so với kế hoạch
THỰC TRẠNG
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện một cách phổ biến trên phạm vi cả nước. Vậy đó có phải là kết quả của đổi mới tư duy về sở hữu nhà nước, là khâu đột phá vào sở hữu nhà nước hay không? Sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đó có còn thuộc thành phần kinh tế nhà nước nữa không? Vai trò làm chủ của người lao động được thể hiện như thế nào ở doanh nghiệp đó
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là đột phá vào sở
hữu nhà nước của chủ nghĩa xã hội (CNXH) mô hình cũ, theo tư duy mới của Đảng ta về sở hữu xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và cụ thể hóa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì thế, cổ phần hóa DNNN thực sự là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, rất nhạy cảm.
Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận trong thành phần kinh tế nhà nước. Việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa DNNN là nhằm trực tiếp nâng cao hiệu quả của DNNN, bảo đảm DNNN làm tốt nhiệm vụ nòng cốt, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, và qua đó, phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác.
Cổ phần hóa DNNN cũng như cổ phần hóa các doanh nghiệp nói chung trong các thành phần kinh tế khác là xử lý về mặt quan hệ sản xuất để phát triển lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH): các doanh nghiệp động viên và tập trung được những khoản vốn lớn để đổi mới công nghệ, đào tạo và đào tạo lại nhân lực… Đẩy mạnh CNH, HĐH, tiếp cận những thành tựu của lực lượng sản xuất, làm động lực đẩy mạnh cổ phần hóa, không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp. Như vậy, giữa cổ phần hóa và CNH, HĐH có mối liên quan chặt chẽ, không thể tách rời.
Tiêu chí quan trọng nhất đánh giá thành công của cổ phần hóa DNNN là hiệu quả của các DNNN đã cổ phần hóa. Hiệu quả này phản ánh lợi ích không chỉ của bản thân DNNN mà của cả các thành phần kinh tế khác, đồng thời cũng là tác động tích cực trở lại của các thành phần kinh tế khác đối với DNNN đã cổ phần hóa. Đương nhiên, cổ phần hóa mới chỉ là xử lý về mặt sở hữu; còn phải xử lý về mặt quản lý và phân phối, mà then chốt là quản lý, mới phát huy được hiệu quả của DNNN cổ phần hóa.
Thành công của cổ phần hóa DNNN là một thành công “kép”, nghĩa là nó làm cho lực lượng sản xuất không chỉ phát triển theo hướng hiện đại, mà còn theo định hướng XHCN. Bởi vì, đây là những doanh nghiệp cổ phần thuộc thành phần kinh tế nhà nước, với vị trí, vai trò và trách nhiệm của chúng. Vấn đề là, trong quá trình huy động các nguồn vốn để cổ phần hóa DNNN, phải xác định cơ cấu sở hữu và chủ sở hữu của doanh nghiệp cổ phần như thế nào đó cho hợp lý, để doanh nghiệp cổ phần vẫn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, không phải thuộc thành phần kinh tế khác - điều mà dư luận rộng rãi rất quan tâm.
tui cho rằng, trong đổi mới tư duy về CNXH, có lẽ điều khó khăn nhất, nhưng quyết định là đổi mới tư duy về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, mà ta vẫn gọi là “công hữu XHCN” (không phải là công hữu cộng sản chủ nghĩa phủ định chế độ tư hữu mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”). Chế độ sở hữu XHCN “truyền thống” đã phát huy rõ rệt mặt tích cực trong những điều kiện nhất định, nhưng lại bộc lộ mặt tiêu cực trong những điều kiện khác, dần dần được coi là “vô chủ”, thiếu động lực, và do vậy, nó nhất thiết ph...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status