Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam - pdf 19

Download miễn phí Chuyên đề Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam



Theo báo cáo của Bộ Thương mại thì hiện nay tiêu được xuất khẩu vào 32 thị trường chủ yếu, trong đó 4 thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ 15,3%, Hà Lan 13,5%, Singapo 10,3%, Đức 6,9%. Thị trường đang có sự chuyển dịch từ các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, trung Quốc. sang Hoa kỳ, Hà Lan, Liên Bang Nga. Cũng theo báo cáo của Bộ Thương mại hiện nay Việt Nam là nước đứng thứ hai về sản lượng và đứng đầu thế giới về khối lượng xuất khẩu. Tuy nhiên do có tới 70% khối lượng phải xuất khẩu sang các nước thứ ba làm cho giá xuất khẩu ở nước ta luôn ở mức thấp hơn giá thế giới khoảng 20 – 30% đây là điều thua thiệt lớn cho tiêu xuất khẩu của chúng ta.
Vì tiêu được xuất khẩu phân lớn là do chúng ta đang dẫn đầu thế giới về sản lượng xuất khẩu nên sự thay đổi nhỏ của giá tiêu thế giới có ảnh hưởng không nhỏ tới Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên gia năm 2002 giá hạt tiêu trên các thị trường diễn biến theo hai xu hướng rõ rệt là giảm nhanh trong quí i và tăng mạnh trong 9 tháng cuối năm.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

hổng lồ”, có thể ví như vậy về sự phát triển vượt bậc của ngành cà phê Việt Nam trên “bản đồ cà phê” thế giới. Vào năm 1980, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được 6000 tấn cà phê nhân, nhưng sao 20 năm đó, vào niên vụ 2001 –2002 con số này đã lên tới gần 900.000 tấn, gấp hơn 100 lần. Việt Nam trở thành nước sản xuất cà phê lớn thứ hai (chỉ sau Brazil).
Vào những năm 1993 – 1994, do cà phê được giá (có thời điểm lên đến gần 40.000 đồng/kg nhân), nhiều người đã đua nhau bỏ tiền mua đất trồng cà phê vối (Robusta) ở khu vực Tây Nguyên, khiến co diện tích tăng thêm mỗi năm ít nhất 70.000 ha (từ 150.000 ha lên 530.000 ha). Năng suất cà phê của Việt Nam cũng đã làm cả thế giới “giật mình”, cao điểm nhất là vào niên vụ 2000 – 2001 với mức trung bình hơn 1,7 tấn/ha, trong khi nhiều nước ở dưới mức 400 kg/ha, của Brazil là 850 kg/ha. Diện tích cà phê trồng nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chiếm tới trên 80% diện tích và hơn 90% sản lượng cà phê cả nước.
“Nhỏ hơn nhưng sẽ mạnh hơn” đó là mục tiêu của ngành cà phê trong thời gian tới. Nếu như trong thời gian 1 – 2 thập niên cuối của thế kỷ 20, ngành cà phê Việt Nam đã tập trung mọi nỗ lực của mình vào việc mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất và tăng khối lương sản phẩm, thì bước sang thiên niên kỷ mới, cần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ theo phương hướng đổi mới chất lượng và phát triển một nền sản xuất cà phê bền vững. chúng ta nên tập trung vào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cả nước có thể giảm được 100.000 – 120.000 ha cà phê Robusta (riêng Đắc Lắc đã có kế hoạch giảm 40.000 /264.000 ha để thay thế bằng cây trồng khác như tăng diện tích trồng ca cao lên 10.000 ha, cao su lên 40.000 – 50.000 ha, cây ăn quả 10.000 – 20.000 ha). Đồng thời có thể chuyển sang trồng cà phê Arabica tại các vùng có khí hậu thích hợp như ở M’Đrak (Đắc Lắc), miền trung du phía Bắc.
Cùng nằm trong tình trạng chế biến gạo, các cơ sở chế biến của Việt Nam còn thiếu then và thô sơ nên chất lượng cà phê chưa cao, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là cà phê nhân thô. Thông thường khách hàng phải mang cà phê Việt Nam sang tái chế ở một số thị trường trung chuyển như Singapo, Hồng Kông... trước khi đưa tới tiêu thụ trực tiếp. Do vậy giá cà phê xuất khẩu ở Việt Nam luôn thấp hơn giá cà phê thị trường thế giới từ 100 – 250 USD/tấn.
Các nhà máy chế biến cà phê tập trung chủ yếu ở phía Nam nhưng con số nhà máy này còn quá ít. Công suất trung bình của các nhà máy này khoảng 3000 tấn/năm/máy, nhưng chỉ phát huy được 50 – 70% công suất. Ngành cà phê mới chỉ có một nhà máy tinh chế cà phê công suất 800 tấn/năm trong đó cà phê hoà tan 100 tấn/năm. Trong mấy năm gần đây một số cơ sở chế biến cà phê đã tạo nên thương hiệu khá nổi tiếng như cà phê Trung Nguyên, Nescafe. Đây là hướng đi mới trong chế biến cà phê ở Việt Nam.
2.2. Tình hình xuất khẩu cà phê
Những năm đầu của thập kỷ 90 nhờ những đột phá trong cơ chế quản lý và điều hành xuất khẩu đã làm thay đổi cơ bản tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam. Trong thời gian này cà phê dần trở thành một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Không ai có thể đoán được rằng ngành cà phê Việt Nam lại có thể vươn lên tầm cỡ như hiện nay với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu luôn ở hai con số.
Biểu 16: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2002
Năm
Sản lượng
(1000 tấn)
Tăng/giảm
(%)
Kim ngạch
(Triệu USD)
Tăng/giảm
(%)
Giá bình quân ($/tấn)
1996
284
400,3
1188
1997
392
38,0
493,7
23,35
1270
1998
382
- 2,5
594,0
20,3
1554
1999
482
26,2
583,3
- 1,4
1213
2000
733,9
52,3
538,4
- 11,4
683
2001
900
22,7
382
- 22,8
423
2002
700
- 28,6
263,3
- 40
515
Dự kiến
2003
520
- 34,6
200
- 31
500
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam số 49 –2003
Qua bảng trên ta thấy, sản lượng cà phê xuất khẩu tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là năm 1997 tăng tới 38%, năm 2000 tăng 52,3%, nhưng bắt đầu giảm mạnh từ cuối năm 2001 do giá cà phê xuống thấp. mặc dù sản lượng tăng khá cao đặc biệt là năm 2001 đạt 900.000 tấn, tuy nhiên trong bối cảnh thị trường cà phê thế giới bị khủng hoảng thừa, nên kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm mạnh từ mức 538 triệu USD trong niên vụ 1999/2000 xuống còn 382 triệu USD niên vụ 2000/2001, 263,3 triệu USD niên vụ 2001/2002 và dự kiến chỉ còn 200 triệu USD trong niên vụ này. Cung thừa đồng thời cũng làm cho ngành xuất khẩu giảm tương đối mạnh từ 873.943 tấn niên vị 2000/2001 xuống 713.733 tấn niên vụ 2001/2002, dự kiến 520.000 tấn niên vụ 2002/2003.
Biểu 17: Kim ngạch xuất khẩu cà phê 1999 – 2003
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – số 49 năm 2003
Trong suốt 4 năm gần đây, giá cà phê ngày càng thấp dẫn tới thua thiệt nhiều cho người nông dân và nhà xuất khẩu. Giá cà phê giảm xuống mức thấp nhất vào năm 2001, bình quân Robusta tại London còn 423 USD/tấn so với giá ở mức cao nhất 1510 USD/tấn năm 1998, giảm gần 4 lần, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm mức kỷ lục. Bình quân cả năm 2001 giá cà phê xuất khẩu đã giảm 38% so với năm 2000 còn 423 USD/tấn FOB. Bước sang năm 2002 giá cà phê có những cải thiện đáng kể, 8 tháng đầu năm giá cà phê Robusta tại London đạt bình quân 496 USD/tấn. Sang tháng 9/2002 thị trường cà phê thế giới bắt đầu tăng trở lại và đạt mức cao vào tháng 12, với cà phê Robusta tại London đạt 780 USD/tấn tăng 53% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân giá cà phê Robusta năm 2002 trên thế giới khoảng 560 USD/tấn.
Mặc dù giá cà phê năm 2002 có dấu hiệu tăng trở lại, nhưng mức giá vẫn còn thấp gây nhiều khó khăn cho người trồng cà phê. Tại Đắc Lắc giá cà phê nhân kho loại 1 đã giảm từ mức 6500 đồng/kg (tháng 1/2001) xuống 5500đồng/kg (tháng 7/2001) và xuống mức thấp nhất 4400 đồng/kg (tháng 12/2001) và chỉ mới tăng trở lại ở mức 7500 đồng/kg vào tháng 12/2002. Tính toán sơ bộ cho thấy có lúc mức giá cà phê đã thấp hơn 38 – 40% so với chi phí sản xuất 7000 – 8000 đồng/kg hiện nay.
Theo dự báo của USDA sản lượng cà phê thế giới năm 2003 sẽ tiếp tục tăng 4% so với vụ trước trong khi đó tiêu thụ dự tính chỉ tăng 1,4% như vậy tình trạng thừa cung lớn sẽ làm giảm giá cà phê thế giới vụ 2003 giảm. Và cũng theo ước tính sản lượng cà phê của Việt Nam năm 2003 sẽ tiếp tục giảm 14,3% vào khoảng 10,5 triệu bao.
Biểu 18: Giá cà phê xuất khẩu thời kỳ 1998 – 2002
Nguồn: Kinh tế 2002 – 2003 Việt Nam và thế giới (tr.22) – Thời báo kinh tế Việt Nam
Về thị trường xuất khẩu cà phê ngày càng mở rộng, tính tới năm 2002 ta đã xuất khẩu vào khoảng 35 thị trường chủ yếu. Năm 2001 cà phê xuất khẩu sang Mỹ tăng nhanh, tăng 45% so với năm 2000 lên 131.900tấn và năm 2002 có giảm nhẹ xuống khoảng 129.500 tấn, tuy nhiên Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất.
Theo đánh giá của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) thì cơ cấu thị trường năm 2002 tương đối ổn định (tương tự năm 2001). Trong 11 thị trường có tỷ trọng lớn nhất (có tỷ trọng 3,3 – 15%) thì có 9 thị trường giảm là: Đức, Mỹ, Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật, Anh, Thuỵ Sĩ, Pháp, Hà Lan và 3 thị trường tăng là: Ba Lan, Philippin, Italia. Và theo đoán thì tỷ lệ n...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status