Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay - pdf 20

Download miễn phí Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ở nước ta hiện nay



Kinh tế quốc doanh được sắp xếp lại và củng cố, chú trong những ngành và lĩnh vực then chốt, mức thu hút lao động tăng ít. Kinh tế hợp tác được củng cố và phát triển theo những hình thức thích hợp, có lựa chọn kinh tế tư nhân, cá thể được đào tạo điều kiện rộng rãi, thu hút lao động lớn. Kinh tế hỗn hợp bằng liên doanh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp được phát triển, thu hút từ 10 - 15 tỷ Mỹ Kim vốn nước ngoài cần trên 20 vạn lao động và cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

nếu không nói là bất hợp lý (xem biểu 1).
Năm
CNKT
THCN/CNKT
CĐ - ĐH/CNKT
93 - 94
1
1,07
3,02
94 - 95
1
1,96
1,75
95 - 96
1
1,38
2,17
96 - 97
1
1,32
3,10
97 - 98
1
1,38
4,09
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển tỷ lệ này là 10 - 4 - 1. Như vậy, việc đào tạo của nước ta theo hình tháp ngược so với thế giới. Điều đó chứng tỏ đào tạo của ta chưa có chất lượng. Có thể nói những năm gần đây, xu hướng là tăng số lượng và tỷ trọng đào tạo của lao động có trình ĐH và trên ĐH, giảm tỷ trọng của lao động THCN, xu hướng này có những mặt tốt và mặt xấu: việc tăng trình độ ĐH và trên ĐH tức là chất lượng của lao động chất xám đã tăng lên, tăng lên trong nghiên cứu KH, trong quản lý và trong sự nghiệp (trong sản xuất kinh doanh gián tiếp). Giảm đội ngũ công nhân kỹ thuật tức là giảm lao động trực tiếp lao động làm ra sản phẩm của xã hội gây ra mất cân đối: số người trực tiếp tham gia sản phẩm ít, còn số người đứng gián tiếp lại nhiều.
Một cơ cấu hợp lý là phải có hình chóp, số người có trình độ cao thì càng ít (đỉnh hình chóp) còn dưới hình chóp là người có trình độ thấp hơn.
b. Số lượng người tốt nghiệp đai học trở lên so sánh giữa người kinh với người dân tộc thiểu số thì trong dân tộc thiểu số còn rất nhiều.
Tính 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, số có trình độ Đại học chỉ có 6650 người, tiến sỹ chỉ có 114 người. Trong người kinh, số lượng tương ứng là 608727; tỷ lệ tương ứng là 1,1% và 1,2% (số của dân tộc thiểu số so với số người kinh). Số sinh viên người dân tộc thiểu số ở các trường Đại học niên khoá 1993 - 1994 chỉ có 207 người. (Nguồn từ Đề tài, "Cung cầu lao động có trình độ cao và các chính sách điều tiết")
c. Về cơ cấu theo lĩnh vực đào tạo.
Về cơ cấu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo lĩnh vực hiện nay, một vấn đề nổi lên là nhiều ngành văn hoá, khoa học và công nghệ thiết yếu chưa có hay thiếu nhiều cán bộ sau Đại học, có nhiều ngành trong các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật... chưa có người được đào tạo sau đại học. Trong tất cả những ngành này đều thiếu những người có khả nưang tìm tòi, khám phá ra những phát minh, sáng chế mới. Đại đa số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chưa phát huy được hết khả năng, năng lực của mình trong công việc. Số lượng cung cấp thì rất lớn nhưng chất lượng đáp ứng được yêu cầu lại rất ít.
d. Cơ cấu theo độ tuổi.
Hiện nay độ tuổi của những người có trình độ đại học trở lên rất cao, lực lượng trẻ có rất ít, nhất là số có trình độ sau đại học và có học hàm. Nói chung là 20% cán bộ có trình độ đại học, 32% tiến sỹ, 63% tiến sỹ khoa học đã trên 50 tuổi. Số cán bộ giảng dạy thâm niên trên 20 năm chiếm 29,28%, số cán bộ giảng dạy Đại học và cao đẳng, ở độ tuổi dưới 35 chiếm 51,65%.
e. Cơ cấu theo giới.
Về cơ cấu theo giới của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, vấn đề nổi bật hiện nay là lao động càng ở trình độ cao thì tỷ lệ nữ giới càng chiếm tỷ lệ nhỏ.
Mặc dù chiếm một tỷ lệ trong các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng lao động có trình độ nữ không thua kém gì so với nam giới. Lao động nữ có khả năng tiếp thu và phát huy khả nưng của mình chẳng kém gì nam giới. Vì vậy cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi với lao động nữ thật phù hợp. Góp phần thực hiện chiến lược "dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, công bằng".
2.3. Chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Chúng ta đã biết rằng, sinh viên là những người có vai trò quan trọng, là lực lượng lao động năng động nhất, có trình độ học vấn nhạy cảm với thời cuộc và những biến động xã hội, là lớp người có khả năng phân tích, xem xét cuộc sống và xã hội. Là nguồn nhân lực có chất lượng cao cung cấp cho các cơ quan, các đơn vị kinh tế, là những người có trình độ chuyên môn, được đào tạo có hệ thống trên nhiều lĩnh vực khoa học.
Thời gian qua, sinh viên đã từng bước phát huy được những thế mạnh của mình, để thực hiện mình sẽ là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nòng cốt là người chủ tương lai của đất nước. Trong sinh viên xuất hiện nhiều phong trào học tập ngoại ngữ, tin học, vi tính... đã xuất hiện nhiều tài năng trẻ, chăm học, ham hiểu biết, nghiên cứu. Nhiều sinh viên đã đạt được các thành tích cao trong các kỳ thi toàn quốc và quốc tế. Nhiều sinh viên đã năng động hơn trong việc tìm kiếm việc làm sau khi ra trường. Chúng ta thấy được sự cố gắng rất to lớn của Đảng Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp trồng người, đã từng bước đáp ứng phần nào về yêu cầu lao động trong số này đã phát huy được vai trò của mình, cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hay công tác nghiên cứu, công tác quản lý... nhiều người đã bằng chính sức lực của mình vươn lên thành những chuyên gia những nhà quản lý những nhà kinh doanh giỏi, làm giàu cho chính mình, cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan mà đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chưa thật sự phát huy hết vao trò của mình, chưa có được những yêu cầu về chất lượng, về số lượng mong muốn.
Thứ nhất là do hệ thống GD - ĐT còn rất nhiều hạn chế, chưa đào tạo được đông đảo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thật cao có năng lực, trí tuệ cao trong lao động.
Thứ hai do những chính sách chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với đội ngũ lao động này chưa hợp lý, chưa đảm bảo được về đời sống vật chất cho họ để họ dốc hết năng lực, tâm huyết của mình vào sáng tạo.
Thứ ba do còn ảnh hưởng nhiều củan cơ chế quản lý bao cấp trớc đây, đã ăn sâu vào tư tưởng, suy nghĩ của nhiều người của nhiều đơn vị kinh tế.
II. Cầu và các nhân tố tác động tới cầu
1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và sự phân bố ở nước ta hiện nay.
1.1. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Nước ta có nguồn nhân lực rất dồi dào để bổ xung cho lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực không ngừng phát triển. Số học sinh tốt nghiệp PTTH tăng mạnh. Năm 1995 có 83 ngàn học sinh. Năm 1998 đạt tới 1,39 triệu học sinh, tăng 60%. Dự kiến đến năm 2010 là 2,37 triệu (10). Nguồn nhân lực trẻ chiếm 65,2% dân số trong độ tuổi từ 16 - 35 khoảng 26 triệu người. Những năm gần đây số lượng công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo kỹ thuật, tay nghề ở các trường dạy nghề chính quy tăng 2,3 lần từ năm 1994 - 1998. Tuy tăng như vậy nhưng so với những năm 1985 - 1986 vẫn chưa bằng. Sự gia tăng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sựn phát triển của lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong những năm tới.
Tính đến năm năm 1995, cả nước có khoảng 2,7 triệu lao động đã được đào tạo kỹ thuật tay nghề ở các trường dạy ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status