Kĩ thuật nuôi cá mú - pdf 20

Download miễn phí Kĩ thuật nuôi cá mú



Trên thế giới, cá mú nằm trong họ phụ Epinephelinae có 159 loài thuộc 15 giống,
phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nơi có rạn san hô, đá ngầm, ở vùng biển
nước ấm. Mùa hè sống ở vên bờ, mùa đông di cư ra vùng xa bờ. Chúng có tập tíh
dinh dưỡng ăn thịt, thức ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau ở giai
đoạn cá con. Ở Việt Nam, chúng phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập
trung nhiều ở ven biển miền Trung.
Tuổi thành thục lần đầu của cá mú lúc 3 tuổi. Trọng lượng thành thục lần đầu thay
đổi tùy theo, kích thước nhỏ nhất là cá mú chuột (1kg), lớn nhất là cá mú nghệ (50-60kg). Mùa vụ sinh sản thay đổi theo từng loài và vùng địa lý, ở Đài Loan mùa sinh
sản từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở Philippine và
các tỉnh Nam Bộ cá có thể đẻ quanh năm.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Kĩ thuật nuôi cá mú
Cá mú thuộc loại cá nước mặn, sống ở biển nhiệt đới, á nhiệt đới. Tập trung nhiều
loài ở vùng biển Thái Bình Dương. Nước ta có tới 30 loài cá mú, trong đó có 7 loài
được ưa chuộng vì có giá trị cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là: cá mú vạch (E.
brunneus), cá mú chấm tổ ong (E. merra), cá mú đỏ (Epinephelus akaara), cá mú hoa
nâu (E. fuscoguttatus), cá mú cáo (E. megachir), cá mú đen (E. heeberi), cá mú mỡ
(E. tauvina).
Cá mú (cá song) thuộc nhóm cá dữ, ăn mồi động vật, thường săn mồi ở nơi yên tĩnh,
khi thiếu mồi, có thể con lớn ăn con bé. Cá mú đẻ trứng, cá con mới nở ra ăn động
vật phù du, cá lớn cỡ từ 8-12cm, ăn động vật sống như cá con, tôm, tép..., cá mú rất ít
khi ăn mồi đã chết và mồi chìm ở đáy.
Nguồn cá mú giống hiện được bắt trong tự nhiên vào mùa cá đẻ ở phía Bắc, vào
tháng 5-7, các tỉnh miền Trung từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Khi bắt cá giống về,
người ta ương cá nhân tạo đến cỡ cá chừng 8-12cm mới xuất bán. Giá cá giống từ
5.000 - 8.000 đ/kg, nuôi 6-8 tháng đạt 0.5-0,8 kg/con, giá cá mú thịt từ 70.000 -
80.000 đ/kg, nguồn cá mú hiện được xuất khẩu rất tốt. Tuy cá mú thịt rất ngon, hiền,
nhưng do chưa hạ được giá thành nên thị trường trong nước chỉ chủ yếu ăn cá đánh
bắt tự nhiên, chứ chưa sử dụng đại trà loại cá mú nuôi. Mong rằng, trong tương lai
gần, nghề nuôi cá mú (cá song), sẽ phát triển mạnh, hạ được giá thành, để trở thành
mặt hàng phổ biến trong và ngoài nước.
Kỹ thuật nuôi cá mú thịt bằng lồng tre
Chọn vị trí đặt lồng nuôi: Chọn các vùng eo, vịnh, đầm, phá, ít gió bão, sóng êm nhẹ.
Nhiệt độ nước từ 20oC trở lên, độ mặn bảo đảm dao động từ 10-33%o (phần ngàn).
Nguồn nước trong sạch, tránh vùng bị ô nhiễm nước thải công nghiệp, nhiễm dầu...
Mực nước duy trì tối thiểu phải đạt từ 1-2m (khi triều xuống thấp). Ngoài ra, còn phải
chú ý chọn điểm nuôi dễ quan sát, theo dõi, bảo vệ và thuận tiện cho quá trình chăm
sóc. Độ sâu tối đa từ 2,5-3m, lưu tốc từ 0,2-0,4 m/giây.
Thiết kế lồng nuôi: Có thể nuôi cá mú bằng lồng lưới, lồng tre, nhưng để dễ thực hiện
và tiết kiệm đầu tư cũng như tận dụng nguồn tre có sẵn địa phương, nên dùng lồng tre
để nuôi cá này.
Dùng nan tre dày 1-1,5cm, rộng 3-4cm, dài 1,5-2m (tùy theo độ sâu nơi đặt lồng mà
xác định chiều dài thích hợp nhất). Lồng nuôi được thiết kế theo hình tròn có đường
kính 2,5-3m, cao 1,5-2m. Xung quanh, ta bện cước từ 2-4 đường, đường giữa, dùng
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
tre tốt uốn dẻo ràng quanh, có thiết kế tay cầm để di chuyển. Chú ý dùng cước loại có
đường kính 0,18-0,2cm. Nắp lồng cũng có thể làm bằng tre hay lưới cước, thiết kế 1
cửa có kích cỡ 60-60 cm hay 70-70 cm để có thể ra vào kiểm tra bên trong lồng.
Đáy lồng cũng làm bằng sạp tre đan khít.
Lồng được treo trên 4 cọc được đóng xuống nền đáy theo hình vuông hay hình chữ
nhật, lồng cách đáy 0,4 - 0,5m và cao hơn mặt nước 0,3 - 0,5m.
Chọn cá giống nuôi thịt: Chọn cá nuôi có kích cỡ từ 8-12cm, lanh lẹ, khỏe mạnh,
không bị sây sát, dị tật, màu sắc đặc trưng của giống cá muốn nuôi.
Mật độ nuôi: Thường từng địa phương nuôi có điều kiện nguồn nước, nhiệt độ khác
nhau, ngoài ra, có nơi nuôi cá mú ghép với một số loại cá khác thì mật độ cũng khác.
Ơở vùng nước tốt, đủ thức ăn, nguồn nước có nhiệt độ thấp, mật độ thả dày hơn từ
40-50 con/m3, còn thường các nơi nuôi, trung bình mật độ thả từ 15-35 con/m3. Có
thể thả nuôi thêm các loại cá khác chung lồng như cá dìa, cá hồng...
Cần chú ý là thả giống vào sáng sớm hay chiều mát. Cần xử lý các giống bằng dung
dịch thuốc xanh Malachite với liều lượng 5-10 gr/m3 nước, tắm trong 20-25 phút
trước khi thả cá vào lồng nuôi.
Chăm sóc, quản lý:
Thức ăn của cá mú là các loại thủy, hải sản sống. Ta có thể dùng các loại thức ăn sau
đây: nhuyễn thể tươi, cua, ghẹ, cá vụn các loại, thịt các loại này còn tươi, đem băm
nhỏ vừa đủ miệng cá táp.
Tập cho cá ăn: Những ngày đầu ta để cá đói, sau đó, thả thức ăn từ từ vào, giả như
thức ăn là sinh vật sống hoạt động và cá sẽ táp mồi, và cứ làm như thế sau một thời
gian ngắn, khi thấy cá quen vị mồi rồi, có thể làm thao tác nhanh hơn, tuy nhiên, cần
tránh thức ăn bỏ vào nhiều và nhanh quá, cá ăn không kịp sẽ rơi xuống đáy lồng là cá
mú sẽ không ăn.
Một ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều tối, khi cho cá ăn nên rải đều thức ăn
ra, tránh tụ tập một chỗ.
Lượng thức ăn thường chiếm từ 5-10% trọng lượng cá nuôi trong lồng.
Thường thời tiết thay đổi đột ngột, nhiệt độ nước và dòng chảy thay đổi nhiều, cá ít
ăn lại, thành thử, những ngày mưa bão, chỉ cho cá ăn 1 lần và giảm trọng lượng thức
ăn lại từ 1/4 - 1/2 lượng thức ăn ngày thường.
Thường xuyên kiểm tra lồng nuôi, khoảng 3-5 ngày cọ rửa, vệ sinh các nan tre, hay
lưới một lần, tháo gỡ các vật cản, rác rưởi bám vào lồng, làm cho lồng thông thoáng,
cá ít bị bệnh vặt, mặc dù cá mú rất ít khi bệnh.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Theo dõi thức ăn hàng ngày dư thừa ra sao, để điều chỉnh liều lượng lại cho thích
hợp, dọn dẹp thức ăn rơi xuống đáy và vệ sinh đáy lồng.
Hàng tháng phải kiểm tra, theo dõi để kịp thời lựa cá lớn trội tách ra nuôi riêng, để
tránh trường hợp cá lớn ăn cá bé hay cá lớn cắn cá nhỏ hơn, làm sây sát và có thể
chết. Ngoài ra, nếu có điều kiện ta dùng mái chèo khuấy nước trong lồng vào những
ngày khí áp thấp để cá có đầy đủ không khí mà không bị ngộp, sinh ra kém ăn hay
chết.
Thu hoạch: Nuôi trong lồng thì thu hoạch rất dễ dàng. Nuôi 6-8 tháng, cá đạt trung
bình từ 0,5 - 0,8 kg/con là có thể thu hoạch. Tuy nhiên, cần lưu ý là canh thời gian
nuôi sao cho trước mùa lạnh là thu hoạch xong, vì khi nhiệt độ Ê 18oC cá ngừng ăn,
không lớn, đối với các vùng nuôi ở phía Bắc và miền Trung bộ, còn các nơi khác, ít
lạnh, thì không quan trọng.
Hiện nay, nghề nuôi cá mú đang là nghề đạt hiệu quả cao và có xu hướng được ngư
dân quan tâm nhiều. Hộ anh Lê Văn Thành ở Long Phước, thị xã Sông Cầu - Phú
Yên, vừa qua nuôi 600 con, đầu tư tất cả 13.400.000đ bán 420kg x 75.000 đ/kg =
31.500.000đ, lãi 18.100.000đ.
KS. Huỳnh Văn Dũng
(Web Binhthuan)
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
(trích bài trên Đặc san Khoa Học Phổ thông)
Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (4-68 USD/Kg). Chúng
được nuôi ở nhiều nơi như: Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kông), Nhật Bản,
Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Brunei...
Nghề nuôi cq mú ở châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn giống hoàn toàn dựa
vào tự nhiên. Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá mú đã bắt đầu ở Nhật Bản vào
thập niên 60, các nước Đông Nam á vào cuối thập niên 70. Đến nay, hơn 10 loài cá
mú đã được nuôi và sản xuất giống nhân tạo như cá mú đen chấm đen (Epinephelus
malabaricus), cá mú đen chấm nâu (E. coioides), cá mú ruồi (E. tauvina), cá mú đỏ
Generated by Foxit PDF Creator © Fo...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status