Chuẩn đoán bệnh truyền nhiễm - pdf 20

Download miễn phí Chuẩn đoán bệnh truyền nhiễm



Nhiều virut có thuộc tính ngưng kết hồng cầu. Chúng có thụthểtương ứng với
thụthểcó trên bềmặt hồng cầu, do đó kết nối các hồng cầu liền kềlại với nhau thành
mạng đa chiều không chìm xuống đáy tựnhiên nhờtỷtrọng của hồng cầu cao hơn tỷ
trọng dung dịch sinh lý. Phản ứng ngưng kết hồng cầu của virut giúp ta phát hiện được sự
hiện diện cũng nhưbán định lượng virut tương ứng. Đồng thời, người ta còn lợi dụng đặc
tính này của virut đểxác định sựhiện diện cũng nhưhiệu giá kháng thể đặc hiệu trong
huyết thanh cần kiểm dưới dạng phản ứng ngăn trởngưng kết hồng cầu (HI:
hemagglutination inhibition reaction).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tỏ bệnh do mầm bệnh tương ứng đang tiến
triển.
Về mặt kỹ thuật mặc dù nguyên tắc của phản ứng kháng nguyên - kháng thể là
đơn giản, nhưng tổ hợp kháng nguyên - kháng thể được hình thành thường khó phát hiện
nếu không có những thủ thuật thích hợp. Chính vì vậy, xuất hiện những phương pháp
phân tích khác nhau. Có thể nói, mỗi phương pháp là một thủ thuật phát hiện tổ hợp
kháng nguyên - kháng thể. Ngoài ra, các phản ứng định lượng (thường bán định lượng)
như xác định hiệu giá kháng thể có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá đáp ứng miễn dịch
tập đoàn.
1.1. Phản ứng kết tủa
Phản ứng kết tủa là phản ứng huyết thanh học để phát hiện kháng nguyên khi có
kháng thể biết trước và để phát hiện kháng thể khi có kháng nguyên biết trước thông qua
việc phát hiện sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể đặc hiệu, trong đó kháng nguyên là
chất tan.
Do kháng nguyên là chất tan nên phản ứng dù xảy ra cũng có thể không được
nhận biết bởi vì tổ hợp kháng nguyên kháng thể sau khi hình thành có thể hòa lẫn (xáo
trộn) cùng với dung dịch do tác động của dòng đối lưu. Để khắc phục, phản ứng này
được thực hiện trong điều kiện giảm thiểu dòng đối lưu của dung dịch. Có thể thực hiện
phản ứng kết tủa trong ống nghiệm nhỏ và trong keo (gel) agar (hay agarose).
Với ống nghiệm nhỏ người ta cho kháng nguyên (dịch chiết từ bệnh phẩm, phải
trong suốt) vào ống sau đó bằng ống hút (pipet) có đầu nhỏ lấy một lượng tương đương
kháng huyết thanh (kháng thể), đưa đầu ống pipet vào sâu tận đáy ống nghiệm rồi nhả từ
từ cho kháng huyết thanh đội dần lớp kháng nguyên lên. Kết quả ta có hai lớp dịch trong
ống. Để yên ở nhiệt độ phòng, sau một thời gian (vài chục phút) nếu có phản ứng xảy ra
ta sẽ thấy một vòng kết tủa màu trắng gần giữa hai lớp dịch (thường thấp hơn ranh giới
giữa hai lớp dịch một chút). Kỹ thuật này thường dùng phát hiện kháng nguyên giáp mô
vi khuẩn nhiệt thán (phản ứng Ascoli).
Phản ứng kết tủa khuyếch tán trong thạch có một số biến thể: khuyếch tán một
chiều, khuyếch tán hai chiều. Kỹ thuật khuyếch tán một chiều ít được sử dụng do phải
tiêu tốn lượng lớn yếu tố phản ứng (kháng huyết thanh hay kháng nguyên). Người ta pha
thạch (agar hay agarose) vào dung dịch sinh lý NaCl 0,8 - 0,85% (pH 7,2) ở nồng độ
thạch khoảng 1% (0,8 - 2,0% agar, phụ thuộc vào chất lượng thạch, có thể kiểm tra bằng
thực nghiệm), đun tan chảy đều rồi ủ duy trì ở 50 °C. Ở nhiệt độ này thạch ở trạng thái
lỏng, có thể cho vào đó một lượng kháng nguyên (hay kháng thể), trộn đều rồi đổ thành
bản thạch trên phiến kính (hay trong đĩa Petri), đục lỗ, mỗi lỗ cho một loại mẫu cần xét
nghiệm. Nhỏ vào đó một lượng kháng thể (hay kháng nguyên). Ủ vào buồng ẩm ở nhiệt
độ phòng hay 4 °C. Sau một thời gian nếu có phản ứng xảy ra ta sẽ thấy vòng kết tủa
trắng xuất hiện quanh lỗ tương ứng.
Phản ứng kết tủa khuyếch tán hai chiều được thực hiện một cách đơn giản nhất
với hai lỗ nhỏ được đục trong khối thạch agarose, một lỗ chứa kháng nguyên còn lỗ kia
chứa kháng thể. Ủ trong buồng giữ ẩm một số ngày và theo dõi hàng ngày, nếu phản ứng
xảy ra ta sẽ thấy đường kết tủa trắng xuất hiện giữa hai lỗ (ở vùng có tỷ lệ hóa trị kháng
thể và hóa trị kháng nguyên xấp xỉ 1). Tuy nhiên, phản ứng này thường có độ nhạy rất
thấp do đó cần vận dụng phương pháp cải tiến như dưới đây.
Trên một phiến thạch cần đục 7 lỗ (đường kính khoảng 3 mm, một lỗ ở tâm và
sáu lỗ ở xung quanh (biên), đều cách lỗ tâm và cách nhau khoảng 3 - 3,5 mm. Như vậy ba
lỗ liền kề nhau luôn tạo một tam giác đều. Nếu để phát hiện kháng nguyên thì nhỏ vào lỗ
tâm một lượng kháng huyết thanh chuẩn (kháng thể) rồi nhỏ vào hai lỗ biên đối diện nhau
một lượng kháng nguyên chuẩn. Còn bốn lỗ biên còn lại dùng để chứa các mẫu kháng
nguyên cần kiểm. Ủ vào buồng ẩm, kiểm tra kết quả hàng ngày. Nếu các lỗ kiểm đều
không chứa kháng nguyên tương ứng thì giữa kháng nguyên chuẩn và kháng thể chuẩn
phải xuất hiện đường tủa chuẩn thẳng kéo dài từ phía một lỗ cần kiểm sang phía một lỗ
cần kiểm đối diện. Nếu có kháng nguyên ở lỗ cần kiểm nào đó thì đường kết tủa chuẩn sẽ
uốn cong trước lỗ đó và hướng về phía lỗ tâm. Trong trường hợp kháng nguyên ở lỗ cần
kiểm có nồng độ cao, đường kết tủa trắng sẽ xuất hiện giữa lỗ đó với lỗ tâm và cùng với
đường kết tủa chuẩn tạo thành một đường cong liên tục. Sự giao cắt của hai đường tủa
(chuẩn và kiểm) chứng tỏ thành phần kháng thể trong kháng huyết thanh chuẩn là đa giá
còn kháng nguyên kiểm, ít nhất là, có thành phần không cùng nhóm với kháng nguyên
chuẩn.
Để phát hiện kháng thể thì cho kháng nguyên chuẩn vào lỗ tâm, một cặp lỗ đối
diện chứa kháng huyết thanh chuẩn, bốn lỗ còn lại chứa huyết thanh cần kiểm. Kết quả
biểu hiện dưới dạng các đường kết tủa tương tự trường hợp trên.
1.2. Phản ứng ngưng kết
Phản ứng ngưng kết là phản ứng huyết thanh học để phát hiện kháng nguyên khi
có kháng thể biết trước và để phát hiện kháng thể khi có kháng nguyên biết trước thông
qua việc phát hiện sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể đặc hiệu, trong đó kháng
nguyên là hữu hình (tế bào vi khuẩn, hạt nhỏ, tế bào hồng cầu,...).
Nếu để phát hiện kháng thể, kháng nguyên là tế bào vi khuẩn có thể được nhuộm
màu (bằng crystal violet, rose bengal), khi đó có thể thực hiện phản ứng ngưng kết nhanh
với huyết thanh, với máu nguyên hay với sữa nguyên.
Phản ứng ngưng kết nhanh với máu nguyên được thực hiện bằng cách trộn một
giọt máu nguyên vừa lấy từ động vật bằng một vòng (khuyên cấy vi khuẩn) trộn với một
giọt nhỏ dịch kháng nguyên đã được nhuộm màu đặt sẵn trên một phiến kính. Kết quả
dương tính biểu hiện dưới dạng các hạt trong giọt co cụm lại làm cho dịch còn lại trở nên
trong. Nếu không phản ứng (âm tính) các tế bào vi khuẩn nhuộm màu vẫn phân bố đều
trong giọt làm dịch tiếp tục đục đều. Phản ứng này dùng để phát hiện nhanh tình hình
nhiễm Salmonella gallinarum-pullorum (hay Salmonella Gallinarum-Pullorum gây bệnh
bạch lị gà con và thương hàn gà trưởng thành) trong đàn gia cầm và một số bệnh nhiễm
khuẩn khác.
Phản ứng ngưng kết nhanh với sữa nguyên được thực hiện để phát hiện bò cái,
cừu cái mang mầm bệnh sẩy thai truyền nhiễm và một số bệnh nhiễm khuẩn khác. Cho
một ít sữa tươi mới vào ống nghiệm rồi cho kháng nguyên vi khuẩn đã nhuộm vào lắc
trộn đều. Nếu phản ứng dương tính, các tế bào vi khuẩn sẽ co cụm lại với nhau và bám
vào lớp kem nổi lên bề mặt sữa với màu thuốc nhuộm vi khuẩn kháng nguyên. Ngược lại
các tế bào vi khuẩn có màu phân bố đều trong sữa khi phản ứng âm tính.
Phản ứng ngưng kết nhanh cho kết quả nhanh nhưng độ nhạy thấp và không thể
định lượng để so sánh hàm lượng kháng thể như phản ứng chậm trong ống nghiệm. Cho
vào mỗi ống của một dãy ống n...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status