Đề án Một vài ý kiến về chính sách phân phối, tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Hà - pdf 21

Download miễn phí Đề án Một vài ý kiến về chính sách phân phối, tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Hà



Mục lục
 Trang
Lời nói đầu
Phần I : Cơ sở lý luận về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
I. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm cạnh tranh
2. Vai trò của cạnh tranh
II. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Khái niệm khả năng cạnh tranh
2. Tính tất yếu khách quan của việc tăng khả năng cạnh tranh
III. Các công cụ chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Các công cụ mang tính chiến lược
 1.1. Chiến lược sản phẩm
 1.2. Chiến lược cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
 1.3. Hoàn thiện chính sách phân phối, tiêu thụ
2. Các công cụ mang tính chiến lược
3. Tổ chức dịch vụ sau bán hàng
4. cách thanh toán
Phần II : Thực trạng khả năng cạnh tranh trong khâu phân phối tiêu thụ sản phẩm của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
I. Quá trình hình thành, phát triển của Công ty
II. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty vài năm gần đây
III. Thực trạng khả năng cạnh tranh trong khâu phân phối, tiêu thụ của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
1. Về sản phẩm
2. Chính sách giá cả mà Công ty áp dụng trong tiêu thụ sản phẩm
3. Tình hình thực hiện chiến lược kênh phân phối
4. Hoạt động khuyến mại
5. cách thanh toán giao dịch
IV. Đánh giá về khả năng cạnh tranh trong khâu phân phối tiêu thụ của Công ty Bánh kẹo Hải Hà
1. Ưu điểm
2. Những tồn tại
3. Nguyên nhân chủ yếu
Phần III : Một số ý kiến xây dựng, củng cố lại hệ thống phân phối tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Hà.
Kết luận
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

doanh nghiệp áp dựng với các loại thị trường của mình trên cơ sở kết hợp một số chính sách, điều kiện khác.
1.3. Hoàn thiện chính sách phân phối, tiêu thụ
Doanh nghiệp cần nghiên cứu, lựa chọn thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Kênh phân phối được tạo được sự phối hợp ăn ý giữa các thành viên không vì quyền lợi của một thành viên này mà làm tổn thương đến toàn bộ hệ thống kênh. Kênh dài hay ngắn phụ thuộc vào mục tiêu phân phối của doanh nghiệp. Khi cạnh tranh phát triển mạnh, các nhà sản xuất thường tự mình quản lý hệ thống kênh để tiến hành kiểm soát có hiệu quả hơn quá trình phân phối. Việc sử dụng kênh phân phối như là một công cụ cạnh tranh đòi hỏi các nhà quản trị phải điều hoà được quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên kênh. Các thành viên của kênh sẽ là người có những nỗ lực trực tiếp trong việc đẩy nhanh lượng tiêu thụ sản phẩm đồng thời là người tìm kiếm thị trường cho chính họ và cho Công ty.
Kênh trực tiếp ngắn
Người đại lý
Kênh trực tiếp dài
Người sản xuất
Người tiêu dùng
Kênh gián tiếp ngắn
Người bán lẻ
Người bán buôn
Người bán lẻ
Kênh gián tiếp dài
Thông thường có bốn kiểu kênh phân phối sau:
Việc chọn lựa kênh phân phối dựa vào đặc điểm sản xuất kinh doanh cũng như đặc điểm kinh tế kỹ thuật sản phẩm cần tiêu thụ của doanh nghiệp. Đồng thời việc lựa chọn đó cũng phải dựa trên đặc điểm thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm về khoảng cách đến thị trường, địa hình, hệ thống thông tin của thị trường và khả năng tiêu thụ của thị trường. Từ việc phân tích các đặc điểm trên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý, đạt hiệu quả cao.
2. Các công cụ mang tính chiến thuật:
Được sử dụng như một kích thích tức thời vào thị trường nhằm đón nhận sự phản ứng tức thời theo hướng mong muôngân sách từ phía thị trường.
Các công cụ này chủ yếu đóng vai trò như những biện pháp yểm trợ, xúc tiến bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, bao gồm: Quảng cáo, khuyến mại, chào hàng, tham gia hội chợ triển lãm.
3. Tổ chức dịch vụ sau bán hàng thuận lợi hợp lý.
Làm tốt công tác này sẽ làm nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Đồng thời qua dịch vụ sau bán hàng, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ra sao, biết được ý kiến phản hồi của khách hàng về sản phẩm, phát hiện các khuyết tật của sản phẩm mà hoàn thiện đổi mới sản phẩm.
4. cách thanh toán:
Là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử dụng hiện nay. cách thanh toán nhanh gọn hay chậm chạp rườm rà sẽ ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó tới cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Doanh nghiệp có thể áp dụng cách thanh toán trả tiền qua Ngân hàng đối với các doanh nghiệp ở xa để đảm bảo tính nhanh gọn, an toàn cho cả khách hàng và doanh nghiệp. Với doanh nghiệp có vốn lớn có thể cho khách hàng trả chậm sau một thời gian nhất định, giảm giá đối với khách hàng thanh toán ngay hay mua với khối lượng lớn.
Phần II
Thực trạng khả năng cạnh tranh trong khâu phân phối tiêu thụ sản phẩm của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh sản phẩm bánh kẹo, chế biến thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Hiện nay sản phẩm của Công ty đang được ưa chuộng và đã có mặt ở khắp mọi nơi trong cả nước cũng như ở nước ngoài.
Trụ sở của Công ty đặt tại: Số 25 đường Trương Định - Hà Nội
Tên giao dịch Quốc tế : Hai Ha Confectionery Company
Viết tắt : HaiHaCo
Trong ngành sản xuất bánh kẹo, Hải Hà là doanh nghiệp dẫn đầu với năng lực 10.000 tấn/năm. Có được vị trí như vậy kết quả của một sự nỗ lực phấn đấu của Hải Hà trong hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành.
Sau đây là những chặng đường mà Công ty đã trải qua:
* Giai đoạn từ 1959 - 1961
Tháng 11 - 1959, Tổng Công ty Nông thổ sản Miền Bắc (trực thuộc Bộ Nội thương) đã cho xây dựng được một cơ sở thực nghiệm nghiên cứu hạt chân châu (Topioca) với 9 cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty gửi sang. Đến đầu năm 1960, thực hiện chủ trương của Tổng Công ty, anh chị em của cơ sở sản xuất mặt hàng miến (sản phẩm đầu tiên) từ nguyên liệu đậu xanh để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Trên cơ sở đó ngày 25/12/1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời, đi vào hoạt động với những máy móc thiết bị thô sơ, đánh dấu một bước ngoặc đầu tiên cho sự phát triển sau này của nhà máy.
* Giai đoạn từ 1962 - 1967.
Đến năm 1962, Xí nghiệp miến Hoàng Mai trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Thời kỳ này Xí nghiệp đã thứ nghiệm thành công và đưa vào sản xuất các mặt hàng như dầu và tinh bột cung cấp cho nhà máy pin Văn Điển.
Năm 1966, viện thực vật đã lấy nơi đây làm cơ sở vừa sản xuất thử nghiệm các đề tài thực phẩm để từ đó phổ biến cho cac sđịa phương sản xuất nhằm giải quyết hậu cần tại chỗ tránh được ảnh hưởng của chiến tranh gây ra. Từ đó nhà máy đổi tên thành nhà máy thực phẩm thử nghiệm Hải Hà. Ngoài sản xuất tinh bột ngô, nhà máy còn sản xuất viên đạm, nước chấm lên men, nước chấm hoa quả, dầu đạm, tương bánh mỳ, bột dinh dưỡng trẻ em và bước đầu nghiên cứu mạch nha.
* Giai đoạn 1968 - 1991
Năm 1968, nhà máy trực thuộc Bộ lương thực thực phẩm quản lý và đến tháng 6/1970 thực hiện chủ trương của Bộ, nhà máy đã tiếp nhận chính thức phân xưởng kẹo của nhà máy kẹo Hải Châu bàn giao sang với côngúút 900 tấn/năm với nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo, nha, giấy tinh bột và mang tên mới là nhà máy thực phẩm Hải Hà với số cán bộ công nhân viên lúc đó là 555 người.
Tháng 12/1976 nhà máy phê chuẩn thiết kế mở rộng với công suất 6000 tấn/năm. Đến năm 1980, nhà máy chính thức có 2 tầng nhà với tổng diện tích sử dụng là 2.500m2 được đưa vào sản xuất với số lượng 900 cán bộ công nhân viên.
Năm 1988, nhà máy trực thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lý. Thời kỳ này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất, dần dần thực hiện hoàn chỉnh luận hứng kinh tế. Một lần nữa, nhà máy đổi tên thành Nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà. Sản phẩm được tiêu thụ rộng rãi trong nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Tốc độ tăng sản lượng hàng năm từ 1% đến 15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần tiến tới cơ giới hoá 70% đến 80% với số vốn nhà nước giao từ 1/1/1991 là 5.454 triệu đồng.
* Giai đoạn từ 1992 đến nay.
Tháng 1/1992 nhà máy trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý, trước tình hình biến động của thị trường, nhiều doanh nghiệp đã phá sản nhưng Hải Hà vẫn tiếp tục đứng vững đi lên. Để tạo điều kiện cho sự phát triển và nâng cao năng lực sản xuất, tháng 2/1...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status