Xây dựng chiến lược kinh doanh của VPI đến năm 2015 - pdf 21

Download miễn phí Đề tài Xây dựng chiến lược kinh doanh của VPI đến năm 2015



Về quy mô tương đối giữa khách hàng và VPI thì xét theo tuyến khách hàng(các bệnh viện tuyến 1 tiêu thụ số lượng hàng lớn hơn rất nhiều so với bệnh viện tuyến 2): Từ bảng danh mục hợp đồng trên cho thấy bệnh viên tuyến Trung Ương là các khách hàng cực kỳ quan trọng. Các đối tượng như Viện K, viện Bạch Mai, Viện Chợ Rẫy sử dụng khối lượng rất lớn thuốc trong điều trị bệnh ung thư gấp hàng nhiều lần so với các bệnh viện tuyến tỉnh. Đây là các khách hàng lớn nhất đối với VPI và luôn cần được chăm sóc đặc biệt. Nhìn chung toàn bộ khối viện Trung Ương khu vực Hà Nội đều là những khách hàng rất lớn đối với bất kỳ nhà phân phối dược phẩm nào. Tình trạng quá tải ở các viện Trung Ương cho thấy nhu cầu sử dụng thuốc của họ là rất lớn trong khi đó VPI mới chỉ cung cấp một vài mặt hàng trên mà thôi.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

đầu vào của nhập khẩu hàng hóa tăng khoảng 7-8.5%, vì vậy đây là vấn đề đáng quan tâm đối với VPI.
Yếu tố Văn hóa xã hội
Người dân quan tâm đến sức khỏe ngày càng lớn nên nhu cầu khám Chữa bệnh tăng ngày một cao. Các bệnh viện nhất là bệnh viện cấp Trung Ương luôn ở tình trạng quá tải. Trên báo Vietnamnet GĐ Lê Hoàng Minh ở bệnh viện Ung Bướu Tp. Hồ Chí Minh đưa ra một số minh chứng: Nếu năm 2003, lượt người khám tại BV dừng ở mức 231.777, thì qua năm 2007 đã tăng gần 100 ngàn lượt với 328.222 bệnh nhân. Con số thống kê chưa đầy đủ của 10 tháng năm 2008 này đã tăng lên vài chục ngàn trường hợp so với năm trước
HÌNH 10: Bảng số lượt khám bệnh của người dân ở các tuyến
Năm
Tổng số
Trong đó
Trung ương
Y tế các ngành
Địa phương
2002
127.824.420
2.803.289
2.981.721
122.039.410
2003
146.944.901
3.369.777
2.879.213
140.695.911
2004
155.686.076
3.296.697
2.635.642
149.753.737
2005
155.608.361
3.400.732
2.715.643
149.491.986
Nguồn( tổng cục thống kê)
Tình trạng quá tải BV là do một số nguyên nhân sau: chất lượng điều trị của tuyến dưới thấp, chất lượng điều trị và ngày điều trị còn kéo dài, số giường bệnh trên 1 vạn dân của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó là do tâm lý bệnh nhân và người nhà tin rằng các viện tuyến 1 được đầu tư các TTBYT hiện đại và đầy đủ, trình độ các y– bác sỹ chuẩn đoán và điều trị cao. Thực tế là rất nhiều trường hợp kết quả chuẩn đoán sai lệch giữa các cấp điều trị, điều này do trình độ các y-bác sỹ còn chưa cao.
Tình trạng quá tải trên được giải quyết một phần bởi sự đi vào hoạt động của các bệnh viện tư nhân. Qua số liệu dưới đây cho thấy số lượng các bệnh viện là tăng nhanh 206 bệnh viện từ năm 2006 – 2007, đây là các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp phân phối dược phẩm. Số lượng khách hàng( bệnh viện) tăng nhanh khi Chính phủ bắt đầu thực hiện chính sách xã hội hóa ngành y tế, cho phép các bệnh viện tư đi vào hoạt động.
Hình 11: Số bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh
Năm
Bệnh viện
Phòng khám đa khoa khu vực
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
2005
878
880
53
2006
903
847
51
2007
956
829
51
Nguồn(tổng cục thống kê)
Hội nhập kinh tế quốc tế
Do Việt Nam là một nước đang phát triển, trình độ công nghệ và khả năng nghiên cứu còn rất thấp vì vậy không chỉ trong lĩnh vực y tế mà còn nhiều lĩnh vực khác chủ yếu phụ thuộc nhiều vào công nghệ và sản phẩm nước ngoài. Sản xuất dược phẩm trong nước còn thấp mới chỉ đáp ứng được 40% thị phần thuốc, chủ yếu là nhập khẩu nước ngoài:
Hình 10: Kim ngạch suất nhập khẩu thuốc của Việt Nam
Nguồn( cục quản lý dược Việt Nam)
Đấy chưa kể đến vấn đề nhập khẩu TTBYT công nghệ cao gần như là hoàn toàn. Sản xuất TTBYT trong nước mới chỉ là vật tư: giường bệnh, bơm tiêm… Có TTBYT hiện đại sẽ hỗ trợ cho các thầy thuốc chẩn đoán, phát hiện và xử lý kịp thời, có hiệu quả những căn bệnh hiểm nghèo: ung thư, sọ não, ghép tạng, đa chấn thương... như vậy các sản phẩm kinh doanh ngành y tế: dược phẩm và TTBYT sẽ theo xu hướng chất lượng và hiện đại. Lựa chọn con đường kinh doanh sản phẩm ngoại là lối đi đúng hướng cho VPI.
Hội nhập kinh tế quốc tế mở đường cho giao thương thuận tiện hơn. Hợp tác với nước ngoài thuận lợi hơn về mọi mặt: văn hóa, kinh tế, khoa học…. chỉ sau 1 năm ra nhập WTO hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam đã tăng nhanh chóng, năm 2008 xuất khẩu Việt Nam tăng 39% đạt 48.6 triệu USD, nhập khẩu tăng 48.3% đạt 64.4 triệu USD. Bên cạnh đó còn đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa của các Quốc gia trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt sự chuyển giao công nghệ kỹ thuật giữa các nước càng thúc đẩy nhanh khi tuổi thọ sản phẩm ngày càng bị rút ngắn. Cùng với sự chuyển giao công nghệ kỹ thuật : Máy móc thiết bị, kỹ thuật sử dụng, đào tạo nhân sự điều khiển….
Nhiều cơ hội cho VPI cũng như nhiều DN khác đó là hội nhập giúp các doanh nghiệp trong nước dễ dàng hợp tác với các đối tác nước ngoài do nước tham gia phải thực hiện các qui định khi tham gia. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO từ ngày 11/7/2007, và trong sân chơi này Việt Nam bắt buộc phải thực hiện đúng các qui định: Cam kết về thuế xuất đối với các mặt hàng xuất- nhập khẩu ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp,…, về độ mở rộng đối với các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam….:
Thuế:Dự kiến mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ chỉ còn 0-5% so với mức thuế 0-10% như trước đây. Mức huế trung bình sẽ là 2.5% sau 5 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO
Quyền kinh doanh( xuất nhập khẩu):Kể từ ngày 1/1/2009 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh của DN nước ngoài tại Việt Nam được trược tiếp xuất- nhập khẩu dược phẩm.
Hoạt động Nhập khẩu ủy thác và ủy thác nhập khẩu 0.7-1.5% không còn như hiện nay
Bên cạnh việc bắt buộc thực hiện theo qui định của WTO thì Việt Nam vẫn có được các quy định riêng của mình. Về lĩnh vực xã hội hóa trong đó có ngành y tế về Quyền phân phối trực tiếp: Các DN có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh DN nước ngoài tại VN sẽ không được tham gia phân phối trực tiếp dược phẩm tại Việt Nam
Các thuốc do DN có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh DN nước ngoài tại VN nhập khẩu trực tiếp sẽ bán lại cho các DN phân phối trong nước có chức năng phân phối ( kể từ ngày 1/1/2009)
Ra nhập WTO tạo ra các cơ hội cho VPI dễ dàng hơn trong hợp tác làm việc với đối tác nước ngoài, nhập khẩu ủy thác và ủy thác nhập khẩu giảm mở rộng đường nhập khẩu các mặt hàng dược phẩm, qui định về thuế sẽ giảm được chi phí đầu vào so với trước vì vậy lượng vốn cho kinh doanh sẽ linh động hơn.
Nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức khi thu hút nhiều DN nước ngoài tham gia thị trường tiềm năng này. DN có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều lợi thế về vốn, kinh nghiệm, kỹ năng…
Phân tích môi trường vi mô ( môi trường nội bộ ngành dược phẩm)
Hình 13: Mô hình hoạt động của hệ thống phân phối dược phẩm
2.1- Môi trường nội bộ ngành
Thống kê 2007 trên cả nước có khoảng 897 công ty kinh doanh phân phối dược phẩm: Công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Đặc điểm của phân phối dược phẩm là các công ty thương mại nên có thể cung cấp bất kỳ loại dược phẩm nào vì vậy bất kỳ nhà phân phối nào cũng là các đối thủ của mình.
Hệ thống phân phối dược phẩm bao gồm: nhà sản xuất, trung gian phân phối nước ngoài, trung gian phân phối cấp 1-2, đại lý bán thuốc hoạt động theo sơ đồ sau:
Trong đó:
Trung gian phân phối cấp 1 và trung gian phân phối nước ngoài: là các doanh nghiệp tiền thân của Nhà nước chuyên làm chức năng nhập khẩu và làm thêm các chức năng dịch vụ kho bãi, giao nhận: như Codupha, Phytopharma( Dược phẩm TWII), Vimedimex, Sapharco... Các doanh nghiệp này vừa có chức năng nhập khẩu thuốc nước ngoài dưới sự điều hành của bộ y tế, lại vừa đảm nhiệm chức năng dài… rất nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân.
Trung gian phân phối cấp 1-2 là các doanh nghiệ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status