Chính sách kinh tế mới và công cuộc đổi mới ở Việt nam - pdf 23

Download miễn phí Chuyên đề Chính sách kinh tế mới và công cuộc đổi mới ở Việt nam



Stt Nội dung Trang
1 Lời nói đầu 1
2 Chương1-Chinhs sách kinh tế mới là bước phát triển tất yêu của công cuộc xây dựng nước Nga 3
3 I-Hoàn cảnh ra đời của NEP 3
4 1-Các điều kiện khách quan 3
5 2-Điều kiện chủ quan 4
6 II-Sự ra đời của chính sách kinh tế mới 5
7 III-Nội dung và mục tiêu của chính sách kinh tế mới 5
8 1-ổn định kinh tế 5
9 2-ổn định chính trị 6
10 3-Kích thích vật chất và tinh thần 6
11 Chương 2-Chính sách kinh tế mới đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt nam 7
12 I-Đặc điểm của hai dân tộc khi vận dụng NEP 7
13 1-Những điểm tương đồng 7
14 2-Những nét khác biệt 8
15 II-Sự vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt nam 9
16 Chương 3-Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng NEP trong công cuộc đổi mới ở Việt nam 11
17 I-NEP với tư cách là cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên CNXH 11
18 II-NEP với vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN 13
19 Kết luận 22
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


rở thành lợi ích trực tiếp và xuất phát để thực hiện các lợi ích khác trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
--- o0o---
Chương II
chính sách kinh tế mới đối với
công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
I. Đặc điểm của hai dân tộc khi vận dụng nep
Thắng lợi của công cuộc đối mới trên đất nước ta mới chỉ là bước đầu. Trước mắt cũng như lâu dài, để thực hiện công cuộc đổi mới thắng lợi hoàn toàn, Đảng ta, nhân dân ta còn phải trải qua nhiều gian khổ, gay go và quyết liệt. Nước Nga - Xô Viết và Việt Nam vốn là hai dân tộc: cách xa về địa lý, dân số, phong tục tập quán, truyển thống văn hoá.v.v.. Nhưng trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, đặc biệt trong công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước - xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cả hai dân tộc, lại có những điểm tương đồng và khác biệt.
1. Những điểm tương đồng
1. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cả nước Việt Nam và nước Nga đều mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài với sự tàn phá hết sức nặng nề.
2. Cả hai nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều nằm trong tình hình kinh tế chưa phát triển. ở nước Nga, theo V.I. Lênin, chủ nghĩa tư bản mới phát triển ở mức trung bình. Còn ở Việt Nam, chủ nghĩa tư bản chỉ mới có mầm mống: một số nhà tư bản dân tộc vốn liếng chưa đáng kể, còn một cơ sở sản xuất nhỏ do bọn tư bản nước ngoài để lại nằm trong tình trạng thiếu thốn, què quặt.
3. Tuy có khác nhau về mức độ, nhưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ở nước Nga - Xô Viết (năm 1921) cũng như khi bước vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam (năm 1986), đời sống nhân dân đều gặp rất nhiều khó khăn, tình hình xã hội thiếu sự ổn định, nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh.
4. ở nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và ở Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Mặc dù ở hai thời điểm lịch sử khác nhau, thời gian cách xa nhau hơn sáu thập kỷ, nhưng trong nhận thức, lý luận cung như trong chỉ đạo thực tiễn của những người cộng sản cả hai nước đều có những điểm sai lầm chủ quan.
2. Những nét khác biệt:
Trên cơ sở phân tích những nét khác biệt để làm sáng tỏ sự sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và NEP nói riêng. Do có sự khác biệt, nên việc vận dụng bao giờ cũng phải sáng tạo, không thể vận dụng nguyên xi, máy móc, cứng nhắc, rập khuôn.
a. Các đặc điểm bên trong mỗi nước:
Mặc dù, nước Nga, như Lênin đã nhận xét khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tuy chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức trung bình, là một nước mà sự phát triển kinh tế kém nhất Châu Âu, song so với Việt Nam, điểm xuất phát đi lên CNXH của nước Nga vẫn cao hơn nhiều.
Mặt khác, muốn đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại ở trình độ cơ khí hoá, hoá học hoá, tự động hoá, một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, v.v trước hết phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi về chuyên môn, giỏi về quản lý mới đủ sức để vận hành nền sản xuất đưa lại năng suất lao động cao. Nhưng ở nước Nga trước đây, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, đội ngũ chuyên gia này thiếu nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Lênin đã phải dùng biện pháp thuê chuyên gia các nước tư bản với mức lương rất cao. Song, làm việc cũng rất khó khăn, vì nằm trong sự bao vây của các nước tư bản. Điều quan trọng trên đây lại được khẳng định trong lời nói của Người: Sẵn sàng đổi một tá những người cộng sản tồi để lấy một chuyên gia tư sản giỏi.
Còn ở nước ta bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, chúng ta đã có thuận lợi hơn nhiều so với nước Nga trước đây. Mặc dù, trong cuộc chiến tranh kéo dài, nhưng Đảng ta cũng đã đoán trước ngày thắng lợi, do đó có sự chuẩn bị trước đội ngũ cán bộ để sau này xây dựng đất nước. Vì vậy đến nay, nước ta đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề khá đông đảo.
b. Thế giới và thời đại:
Ngoài những nét khác biệt có tính chất bên trong của mỗi nước, chúng ta còn thấy có những nét khác biệt về tình hình thế giới cũng như sự phát triển chung của mỗi thời đại (bên ngoài). Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đên việc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nước Nga- Xô Viết xây dựng CNXH trong một thời điểm mà cả thế giới chưa ai làm. Chủ nghĩa đế quốc lại có âm mưu cấu kết cấu với bọn phản động trong nước hòng bóp chết ngay từ đầu CNXH còn non trẻ. Chẳng những chúng muốn tiêu diệt cách mạng nước Nga mà còn ngăn chặn sự phát triển của CNXH trên toàn thế giới.
Đối với Việt Nam hiện nay, mặc dù hệ thống XHCN trên thế giới đã bước vào một giai đoạn biến đổi sâu sắc (sự sụp đổ của CNXH ở các nước Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô). Về một phương diện nào đó, chúng ta không tránh khỏi sự xao xuyến, nếu như không muốn nói là dao động trong nhận thức, trong tư tưởng, trong niềm tin về CNXH. Không chỉ ở trong một bộ phận của nhân dân, mà ngay cả không it những người cộng sản. Thế nhưng, so với nước Nga - Xô Viết trước đây, dẫu sao những thành tựu của CNXH vẫn còn in đậm trong nhân dân, trong những người cộng sản chân chính.
ii. Sự vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam.
Sự vận dụng NEP vào công cuộc đổi mới của nước ta được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Quá trình đổi mới ở Việt Nam là quá trình định hướng XHCN. Thực chất của quá trình định hướng XHCN là giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, con người hạnh phúc.
Có một điều lý thú là khi sự nghiệp đối mới càng phát triển, thì chúng ta càng nhận ra rằng, trên nhiều vấn đề cơ bản, chúng ta dường như đang trở lại với NEP của Lênin.
NEP đã có tác dụng chuyển nền kinh tế theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, đặc biệt là quan hệ trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, dùng động lực kinh tế, lợi ích kinh tế , lợi ích người lao động là chủ yếu để phát triển kinh tế. Xây dựng các hình thức quản lý kinh tế mềm dẻo hơn, phát huy chức năng động sáng tạo của cơ sở với việc tiến hành kế hoạch hoá thống nhất nền kinh tế. Xây dựng một hệ thống tài chính, tín dụng và tiền tệ ổn định. Tiến hành đồng bộ các biện pháp, các đòn bẩy nhằm mục tiêu phát triển kinh tế. Xây dựng đội ngũ của cán bộ lãnh đạo kinh tế kiểu mới: biết phân tích kinh tế, thực hiện mục tiêu và hạch toán kinh tế. Từ phát triển kinh tế, tiến hành giải quyết các vấn đề khác của xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội.
Thực chất những giá trị phổ biến của NEP đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam có thể nêu lên ở một số điểm như sau:
Một là, phải thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, nhưng phải lấy phát triển kinh tế làm trung tâm.
Hai là, phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Ba là, phải chú ý tới tính biện chứng của nhiệt tình cách mạng và...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status