Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số kiến nghị - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số kiến nghị



 
Mở đầu 1
Phần I: Cơ sở lý luận về pháp luật và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 3
1. Lý luận chung về pháp luật. 3
1.1. Khái niệm và bản chất của pháp luật. 3
1.2. Vai trò của pháp luật. 4
2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế nước ta. 5
2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 5
2.2. Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 6
2.3. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. 9
Phần II: Thực trạng môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 12
1. Quá trình đăng ký kinh doanh và các thủ tục trước khi đi vào hoạt động của doanh nghiệp. 13
2. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau khi thành lập. 16
2.1. Huy động vốn. 16
2.2. Đất đai và giấy phép xây dựng. 18
2.3. Thuế 21
2.4. Một số vấn đề tồn tại khác 24
3. Nhận xét 25
Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 26
1. Về hệ thống pháp luật. 26
1.1. Hoàn thiện và ổn định hệ thống pháp luật. 26
1.2. Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật. 27
1.3. Xây dựng hành lang pháp lý về cạnh tranh và độc quyền. 28
2. Về một số chính sách chủ yếu. 29
2.1. Chính sách tín dụng. 29
2.2. Chính sách đất đai. 30
2.3. Chính sách thuế. 32
Kết luận 34
 
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


người được làm những gì mà pháp luật không cấm. Luật đã quy định rõ ràng, cụ thể một số thủ tục liên quan đến quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh, bãi bỏ một số đòi hỏi mà doanh nghiệp thường khó đáp ứng vào lúc thành lập, đồng thời đặt ra một số đòi hỏi đối với các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc đăng ký kinh doanh. Nhờ vậy thủ tục thành lập doanh nghiệp đã trở nên thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều.
Sau hơn 2 năm thi hành Luật Doanh nghiệp (tính đến 1-5-2002) đã có 42576 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập với số vốn mới đăng ký xấp xỉ 50.000 tỷ đồng, đồng thời tạo ra khoảng 700.000 chỗ làm việc mới. Các doanh nghiệp cũng tăng thêm đầu tư, mở rộng thêm qui mô và địa bàn kinh doanh dưới nhiều hình thức như mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ xung thêm vốn đầu tư...(cả nước đã có khoảng 9200 chi nhánh và 900 văn phòng thay mặt đăng ký thành lập). Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp thì các ngành nghề kinh doanh được đăng ký cũng đa dạng và phong phú hơn cũ rất nhiều. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi về quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Cái được lớn nhất của Luật doanh nghiệp là đã tạo bước đột phá trong việc cải cách thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp ở nước ta. Trong 2 năm qua, các cơ quan Nhà nước đã bãi bỏ 175 loại giấy phép khác nhau (tức khoảng 44% tổng số giấy phép kinh doanh đã tồn tại trong nền kinh tế), thể hiện sự thay đổi căn bản về tư duy và cách quản lý nhà nước theo hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền SX-KD của doanh nghiệp với hoạt động quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên theo các doanh nghiệp, vẫn còn nhiều trở ngại trong quá trình thành lập doanh nghiệp cần giải quyết. Đó là:
- Hiện vẫn còn thiếu các thông tin cần thiết vầ hướng dẫn rõ ràng về thủ tục đăng ký kinh doanh. Thêm vào đó, vẫn chưa có một văn bản chi tiết hoá những nghành nghề và lĩnh vực đòi hỏi vốn pháp định. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh chuyên ngành, một số khác thì phải mất thêm thời gian đến sở kế hoạch và đầu tư để tra cứu tên doanh nghiệp đã thành lập trước đó nhằm tránh sự trùng lặp.
- Các doanh nghiệp cho biết vẫn còn ít nhất hai vấn đề cần được bổ xung trong các qui định đăng ký kinh doanh hiện hành là: không có hướng dẫn đăng ký kinh doanh cho một số doanh nghiệp thành lập từ hộ kinh doanh hay doanh nghiệp tư nhân và quy định về những giấy tờ cần trình khi một thay mặt nộp hay nhận đơn đăng ký kinh doanh.
- Một số cán bộ làm thủ tục ở Sở Kế hoạch và Đầu tư còn quá phụ thuộc vào bản “điều lệ mẫu” do Sở cung cấp và không dễ dàng chấp nhận các bản điều lệ do người nộp đơn đăng ký kinh doanh soạn thảo mà không giống điều lệ mẫu. Ngoài ra, một số doanh nghiệp phàn nàn rằng thay vì thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn về những sai sót trong đơn đăng ký kinh doanh như quy định, cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư thường chỉ xem qua đơn và yêu cầu doanh nghiệp đem về sửa một vài lỗi nhỏ.
- Thời gian chờ đợi để doanh nghiệp hoàn thành thủ tục khắc dấu và có được con dấu là lâu. Theo một cuộc điều tra thì khoảng thời gian để nhận được con dấu dao động từ 1 đến 50 ngày, trung bình là 12 ngày. Điều hiển nhiên là các cơ sở khắc dấu này rất nhiều việc và do vậy thường lỡ hẹn trong việc giao dấu. Ngoài ra, để có thể nhận được con dấu sớm hơn các doanh nghiệp phải bỏ ra thêm một khoản là” chi phí làm thêm giờ”. Trong một số trường hợp , khoản chi phí này cao gấp 2-3 lần so với khoản chi phí khắc dấu thực sự.
- Thủ tục đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn thuế giá trị gia tăng là rất phiền toái đối với các doanh nghiệp. Hiện không có những hướng dẫn hay chỉ dẫn thống nhất, rõ ràng cho thủ tục đăng ký mã số thuế. Mỗi cơ quan, nhân viên thuế điạ phương có những yêu cầu và cách giải thích riêng về tính cần thiết của một loaị giấy tờ nào đó. Thậm chí một vài doanh nghiệp phải trình bày những giấy tờ bổ xung quyết định “bổ nhiệm giám đốc” hay thoả thuận thuê văn phòng để có thể mua được hoá đơn thuế giá trị gia tăng
Bên cạnh đó, nhận thức và chỉ đạo Luật Doanh nghiệp trong không ít cơ quan thuộc hệ thống cơ quan nhà nước, nhất là ở cấp chính quyền địa phương còn thụ động, chưa đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn, làm trái. Cho đến nay vẫn còn một số văn bản quan trọng liên quan đến triển khai Luật doanh nghiệp chưa được ban hành. Một số nơi đang làm trái với qui định của Luật doanh nghiệp bằng cách ra lệnh tạm ngừng hay không cấp đăng ký kinh doanh đối với một số ngành nghề không thuộc đối tượng cấm kinh doanh, đặt thêm các thủ tục hay yêu cầu nộp thêm hồ sơ giấy tờ trái qui định của Luật, không cấp hay yêu cầu rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đang cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội kinh doanh, làm mất đi cơ hội kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Các cơ quan Nhà nước cũng chưa thiết lập được hệ thống lý lịch tư pháp phục vụ cho việc quản lý Nhà nước, trong đó có xác minh nhân thân người thành lập doanh nghiệp để thực hiện qui định về những đối tượng không được quyền thành lập doanh nghiệp (Điều 9- Luật doanh nghiệp) dẫn đến có một số đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp nhưng vẫn thành lập, một số doanh nghiệp đăng ký mà không hoạt động hay hoạt động tại địa điểm khác nơi đăng ký kinh doanh.
Như vậy, bên cạnh những thay đổi theo hướng thuận lợi, đơn giản hơn thì quá trình đăng ký kinh doanh và các thủ tục hành chính trước khi đi vào hoạt động của doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các nhà đầu tư đòi hỏi cần nhanh chóng giải quyết để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp.
2. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau khi thành lập.
Sau khi được thành lập, doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất-kinh doanh. Trong giai đoạn này, các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, thông tin …là rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây cũng là các lĩnh vực mà còn nhiều bất cập, hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay.
2.1. Huy động vốn
Vốn là một yếu tố sản xuất rất quan trọng của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp là rất hạn chế, chủ yếu là các nguồn huy động từ bên ngoài trong dó vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng là nguồn mà các doanh nghiệp trông đợi nhất.
Mặc dù trong những năm qua, chính sách tín dụng đã có nhiều thay đổi theo hướng tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận các nguồn vốn của ngân hàng song qua các cuộc điều tra gần đây cho thấy vốn vẫn là khó khăn cơ bản đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những khó khăn này bao gồ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status