Chính sách thương mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Chính sách thương mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế



Lời nói đầu
Chương I: Hoàn cảnh ra đời, quan điểm và mục tiêu của chính sách thương mại hướng về xuất khẩu
1.1. Tình hình Thái Lan giai đoạn 1961-1972
1.2. Chính sách Thương mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan từ năm 1973 đến nay
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
1.2.2. Quan điểm, mục tiêu của chính sách
Chương II: Nội dung chính sách thương mại hướng về xuất khẩu
2.1. Các chính sách thương mại của Thái Lan
2.1.1. Các quy chế thương mại và thuế quan
2.1.1.1. Các quy chế xuất nhập khẩu
2.1.1.2. Thuế quan và bảo hộ
2.1.2. Chính sách sản phẩm
2.1.3. Chính sách thị trường
2.2. Điều chỉnh chính sách thương mại của Thái Lan sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ đến nay
2.3. Một số kinh nghiệm và bài học rút ra cho Việt Nam trên con đường Công nghiệp hóa.
2.3.1. Những kinh nghiệm cần học hỏi2.3.2. Những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chính sách
Lời kết
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


hóa Thái Lan khá rộng rãi, từ đó tạo điều kiện cho chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Thái Lan phát triển thuận lợi.
Còn về mặt khó khăn, giai đoạn này kinh tế thế giới gặp nhiều những trở ngại do giá dầu mỏ tăng(1973), đặc biệt đối với Thái Lan vì nước này hầu như phải nhập khẩu dầu mỏ hoàn toàn. Số liệu của chính phủ Thái Lan cho thấy, vào đầu những năm 70, mỗi năm Thái Lan tiêu thụ khoảng 16.400 thùng dầu. Riêng năm 1974, chính phủ phải chi tới 700 triệu USD để mua dầu. Trong khi chi phí cho năng lượng tăng cao như vậy thì các nguồn thu của Thái lan lại giảm sút, đặc biệt sau khi Mỹ quyết định chấm dứt các hoạt động quân sự tại Đông Dương và rút quân khỏi Việt Nam, Lào, Campuchia(1973) và sau đó là rút một phần quân đội Mỹ ra khỏi căn cứ quân sự tại Thái Lan(1976). Những năm trước đó, nền kinh tế Thái lan phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Dưới danh nghĩa giúp đỡ Thái Lan, các nhà đầu tư của Mỹ bỏ vốn vào nền kinh tế Thái Lan và sử dụng những lợi thế tương đối của nước này về đất đai, tài nguyên nhiệt đới, về nhân công và thị trường. Mỹ đã khuyến khích chính phủ Thái Lan:
Nên dựa vào và khuyến khích tư bản tư nhân để phát triển công nghiệp.
Hạn chế sự phát triển của bộ phận kinh tế quốc doanh.
Hạn chế bớt vai trò điều hành của kinh tế nhà nước.
Cố gắng tạo niềm tin cho các nhà kinh doanh tư nhân và khuyến khích họ đầu tư vào Thái Lan.
Do mất đi những nguồn thu lớn liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương nên công nghiệp xây cất khách sạn và dịch vụ du lịch bị đình đốn khiến cho hàng vạn công nhân mất việc, dẫn tới đội ngũ thất nghiệp ở Thái Lan lên tới 1 triệu người vào năm 1975. Viện trợ kinh tế Mỹ đã giảm nhiều từ sau năm 1975. Tất cả những điều trên này đã làm thâm hụt cán cân thanh toán trở thành một trong những vấn đề quan trọng nhất mà Thái Lan phải đương đầu.
Như vậy, việc lựa chọn con đường công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Thái Lan là một lựa chọn mang tính cấp thiết khi mà chiến lược thay thế nhập khẩu đã không còn phù hợp. Dưới đây bài viết xin đi sâu vào nghiên cứu về chính sách thương mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan trong hệ thống các chính sách về chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu ở Thái Lan.
1.2.2. Quan điểm, mục tiêu của chính sách:
Với việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế cho nhập khẩu được tiến hành từ cuối những năm 50 đầu những năm 60, Thái Lan đã thấy được rõ những hạn chế của chiến lược khi mà các sản phẩm công nghiệp của Thái Lan được sản xuất ra không được tiêu thụ một cách dễ dàng và không làm tăng việc làm trong nước. Và điều quan trọng khi thực hiện chiến lược này là đã không những không làm cho Thái Lan độc lập tự chủ về kinh tế mà còn làm cho sản xuất trong nước có nguy cơ tụt hậu, thương mại bị đình đốn do không phát triển được thị trường, hàng hóa kém cạnh tranh do chi phí cao và không tìm được thị trường tiêu thụ. Trong khi đó các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore với chiến lược hướng ra xuất khẩu đã thu được những thành tựu to lớn. Điều đó đã trở thành động lực, mục tiêu chủ yếu của chính sách thương mại mà Thái Lan hướng tới.
Khi thực hiện chính sách thương mại, các cơ quan hoạch định chính sách của chính phủ, nhà khoa học và ngân hàng thế giới tích cực ủng hộ và tham gia tìm kiếm các biện pháp hỗ trợ cho việc mở rộng thị trường về tăng trưởng thương mại quốc tế cho Thái Lan. Về cơ bản, các biện pháp hỗ trợ mà Thái Lan và ngân hàng thế giới phối hợp đề xuất vào lúc đó bao gồm:
Ưu tiên các khoản cho vay đối với các ngành công nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu.
Cải cách toàn diện cơ chế và hệ thống xuất- nhập khẩu của đất nước.
Thực hiện các chính sách nhằm tiến tới tự do hóa về tài chính, thương mại và đầu tư
Giảm bớt hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Khuyến khích chế biến nông sản xuất khẩu và những mặt hàng truyền thống mà Thái Lan có thế mạnh,
Ngoài ra, chính sách thương mại còn được hỗ trợ mạnh mẽ bởi Đạo luật đẩy mạnh xuất khẩu được thông qua năm 1977, theo đó, chính phủ Thái Lan quyết định miễn thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, thuế kinh doanh đối với các mặt hàng nhập khẩu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu thô.
Như vậy, các quan điểm, mục tiêu và biện pháp của chính sách thương mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan là khá rõ. Điều quan trọng là cần thực thi các chính sách đó như thế nào để nền kinh tế có thể phát triển mạnh mẽ.
Chương II: Nội dung chính sách thương mại hướng về xuất khẩu
2.1. Các chính sách thương mại của Thái Lan:
2.1.1. Các quy chế thương mại và thuế quan:
2.1.1.1. Các quy chế xuất nhập khẩu:
Đối với nhập khẩu: Bộ thương mại Thái Lan có quyền phân loại các hàng hóa phải chịu sự kiểm soát nhập khẩu. Các kiểm soát như vậy thường theo hình thức đòi hỏi giấy phép. Hiện nay có nhiều loại hàng hóa đòi hỏi cần có giấp phép chặt chẽ như: vũ khí, chất nổ, chất gây cháy, dược phẩm có tính chất kích thích, các hàng hóa đặc biệt…Các giấy phép này được cấp theo thời hạn cố định và phải trình lên Bộ thương mại.
Có nhiều hàng hóa không thuộc diện kiểm soát theo đạo luật trên nhưng lại thuộc diện kiểm soát nhập khẩu theo các đạo luật khác và phải có giấy phép của cơ quan chính phủ có liên quan. Việc tăng hay giảm mức thuế nhập khẩu đối với một số loại hàng hóa chủ yếu là để bảo vệ sản xuất trong nước.
Ngoài ra, để khuyến khích buôn bán đường biển, Thái Lan đã thông qua một đạo luật mà theo đó một số hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu phải được chuyên chở bằng của Thái Lan nếu không phải chịu hai lần cước phí vận tải theo quy định.Chính điều này đã tạo điều kiện cho ngành vận tải biển của Thái Lan phát triển mạnh.
Đối với xuất khẩu: xuất khẩu là một phần quan trọng trong chính sách thương mại của Thái Lan. Vì vậy, đối với các hàng hóa xuất khẩu chỉ có một số loại thuế nhất định. Bên cạnh đó, chính phủ Thái Lan còn áp dụng nhiều quy định mang tính khuyến khích để thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu. Đồng thời các thành phần kinh tế được phép xuất khẩu cũng rất đa dạng: các công ty công cộng hay trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức kinh doanh nhà nước hay tư nhân, các hợp tác xã hay các nhóm nông dân.
Từng thời gian một, Bộ Thương mại Thái Lan lại lập danh sách các hạng mục hàng hóa phải chịu sự kiểm soát xuất khẩu theo đạo luật kiểm soát xuất nhập khẩu. Các ưu đãi về thuế quan và miễn thuế được áp dụng cho các tổ chức và công ty kinh doanh đã đạt được tiêu chuẩn theo luật định.
Đối với các hàng hóa xuất khẩu thuộc loại thực phẩm thiết yếu như là gạo, đường, trước hết phải được dữ trữ đủ cho tiêu dùng nội địa rồi mới được xuất khẩu. Đặc biệt là gạo, để đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu nội địa, đồng thời để kiểm soát được giá gạo trong nước thì các nhà xuất khẩu phải đóng thuế xuất khẩu.
Các tổ chức và công ty xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, ngoài việc phải chịu sự kiểm soát của m...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status