Tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện chợ mới, tỉnh An giang từ năm 2001 đến nay - pdf 28

Download miễn phí Khóa luận Tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm cùng kiệt tại huyện chợ mới, tỉnh An giang từ năm 2001 đến nay



PHẦN MỞ ĐẦU. 1
1.Lý do chọn đề tài. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 2
3. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu. 2
4. Dự kiến đóng góp của khóa luận. 2
5. Phương pháp nghiên cứu. 2
6. Kết cấu của khóa luận.3
PHẦN NỘI DUNG.5
Chương 1: Vấn đề xóa đói, giảm cùng kiệt ở Việt Nam và chính sách xóa đói,
giảm cùng kiệt của Đảng và Nhà nước ta.5
1.1 Cơ sở lí luận về xóa đói, giảm nghèo. 5
1.1.1 Đói cùng kiệt – cách tiếp cận.5
1.1.2 Tiêu chí đánh giá và chuẩn đói cùng kiệt ở Việt Nam.9
1.1.2.1 Tiêu chí đánh giá đói cùng kiệt ở Việt Nam. 9
1.1.2.2 Chuẩn đói cùng kiệt ở Việt Nam.9





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


rang 18
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Ở Việt Nam xóa đói, giảm cùng kiệt đã trở thành Chương trình mục tiêu quốc
gia. Vì vậy xóa đói, giảm cùng kiệt đã đạt được những thành tựu nhất định. Tại Hội
nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2005 tại New York, Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo.
Xét theo tỷ lệ hộ đói nghèo: Năm 2001, tỉ lệ hộ nghèo: 15,66%; Năm 2002,
tỉ lệ hộ nghèo: 13,00%; Năm 2003, tỉ lệ hộ nghèo: 10,00%; Năm 2004, tỉ lệ hộ
nghèo: 8,30%; Năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo: 21,85%; Năm 2006, tỉ lệ hộ nghèo: 19%.
Như vậy, từ năm 2001 đến năm 2006 tỷ lệ hộ cùng kiệt ở nước ta đã giảm nhanh
chóng. Tính theo chuẩn cùng kiệt năm 2001, cả nước có 2,8 triệu hộ, chiếm 15,66%
tỷ lệ hộ của cá nước đến năm 2004 giảm xuống còn 1,44 triệu hộ chiếm 8,3% tỷ lệ
hộ cả nước. Đến năm 2005 do áp dụng chuẩn cùng kiệt mới nên tỉ lệ hộ cùng kiệt đói
trong cả nước tăng lên rõ rệt từ 8,3 năm 2004 lên 21,85% nhưng đến năm 2006 tỷ
lệ hộ cùng kiệt cả nước đã giảm xuống còn khoảng 19% giảm gần 3% so với năm
2005. [23]
Xét theo các vùng (tính theo chuẩn cùng kiệt năm 2001): Theo báo cáo của Bộ
Lao động Thương binh - Xã hội, năm 2001, tỉ lệ hộ cùng kiệt ở các vùng Đông Bắc:
22,35%; Tây Bắc: 33,96%; Bắc Trung Bộ: 25,64%; Nam Trung Bộ: 22,34%; Tây
Nguyên: 24,9%. Từ 2001 đến 2004, Tây Bắc đã giảm 19,08% số hộ đói nghèo,
còn các vùng Bắc Trung Bộ; Nam Trung Bộ; Tây Nguyên có tỷ lệ giảm hộ đói
cùng kiệt hơn 10%. Trong khi đó, vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng
bằng Sông Cửu Long có mức giảm từ 3,63% đến 6,78%. Cụ thể: Năm 2001, tỉ lệ
hộ cùng kiệt Đồng bằng Sông Hồng: 9,76%; Đông Nam Bộ: 8,88%; Đồng Bằng Sông
Cửu Long: 14,18% nhưng đến năm 2004 tỉ lệ hộ cùng kiệt ở các vùng này giảm
xuống, lần lượt là: Đồng bằng Sông Hồng: 6,13%; Đông Nam Bộ: 2,25%; Đồng
bằng Sông Cửu Long: 7,4% [23].
Xét theo trạng thái các xã nghèo: Bộ mặt các xã nghèo, xã đặc biệt khó
khăn đã có sự thay đổi đáng kể, nhất là về hạ tầng cơ sở phục vụ cho phát triển sản
xuất hàng hóa. Chất lượng cuộc sống người dân ở xã cùng kiệt được nâng cao, nhất là
nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc miền núi, cụ thể: Thu nhập bình quân đầu người
của 20% nhóm cùng kiệt nhất năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng
khoảng 1,45 lần vào năm 2005. Chi tiêu bình quân của 20% nhóm cùng kiệt nhất năm
2001 là 121.000 đồng/người/tháng và tăng khoảng 8% – 9% trong giai đoạn 2002
– 2005. Trong giai đoạn 1993 – 2004, Việt Nam đã giảm được 60% tỷ lệ cùng kiệt
khổ, tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe miễn phí cho 88% người nghèo, hoàn thành
giáo dục Tiểu học cho tất cả mọi người dân, xây dựng 400.000 căn hộ mới cho
người nghèo, xóa bỏ tất cả những căn nhà tạm ở 2.000 thôn, xóm và năm tỉnh. [23]
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Giảm cùng kiệt ở Việt Nam phản ánh cả trên bình diện gia tăng chi tiêu đầu
người trong hộ gia đình và tăng thu nhập đầu người nhờ có thành tựu 20 năm đổi
mới (1986 – 2006). GDP bình quân đầu người đã tăng nhanh từ 98 USD năm 90
lên 729 USD năm 2006 [19]. Như vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục giảm được mức
cùng kiệt đói, đời sống của những hộ nghèo, nhóm cùng kiệt ngày càng được cải thiện rõ
rệt qua các năm.
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trên:
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã nâng cao nhận thức, năng lực và trách
nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy,
đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong các hoạt động xóa đói, giảm nghèo.
Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo: trong 5 năm
(2001–2005) đã tổ chức đào tạo 130.374 lượt cán bộ, trong đó 95% là cán bộ cấp
xã, thôn, bản về công tác xóa đói, giảm nghèo, với 63 tỷ đồng. Nội dung đào tạo
có những thay đổi và tập trung vào những vấn đề thiết yếu như: nâng cao kỹ năng
tổ chức và tham gia của người dân vào các hoạt động chung, chú trọng đến các vấn
đề tổ chức các nhóm tín dụng, tiết kiệm, giám sát và đánh giá cùng kiệt đói của các
cán bộ xóa đói, giảm nghèo, lập kế hoạch phát triển kinh tếCác chương trình
đào tạo được biên tập và dịch ra 6 thứ tiếng dân tộc để có thể phổ biến cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
Hai là, Đảng và Nhà nước ta tạo những điều kiện thuận lợi để người cùng kiệt
tiếp cận với các điều kiện sản xuất. Cụ thể:
Về tín dụng ưu đãi người nghèo: Trong 4 năm (2001 – 2005), Ngân hàng
chính sách xã hội đã cho 3,75 triệu hộ vay vốn, chiếm khoảng 75% số hộ cùng kiệt
được vay vốn. Để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi, Nhà nước đã cấp bù chênh
lệch lãi suất với số tiền 1.872 tỷ đồng. Phần lớn hộ cùng kiệt sử dụng vốn vay có hiệu
quả, trả vốn đúng hạn.
Về hỗ trợ sản xuất: Thực hiện chính sách hỗ trợ đất sản xuất, các địa
phương đã hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ cùng kiệt để khai
hoang ruộng bậc thang. Hỗ trợ 5.139 ha đất cho 10.455 hộ ở Tây Nguyên, các tỉnh
Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăngđã hỗ trợ cho 4.325 hộ cùng kiệt vay chuộc lại đất
bị cầm cố [15]. Nhờ đó, một bộ phận người cùng kiệt đã có đất để phát triển sản xuất,
tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống thoát ra khỏi diện đói nghèo.
Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn theo
quyết định QĐ 257/2003/QĐ – TTg. Đầu năm 2005 với nguồn ngân sách Trung
ương hỗ trợ là 78,5 tỷ đồng cùng với 44,5 tỷ đồng do địa phương huy động được
đã hỗ trợ các địa phương xây dựng với mức hỗ trợ là 500 triệu đồng/xã. Kết quả là
có 230 công trình được xây dựng (trong đó có 18 công trình thủy lợi, 5 công trình
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
kè chống nước biển, 10 công trình bờ bao chống triều cường, 9 công trình đường
ra bến cá, 8 chợ cá, 1 trạm bơm cấp nước biển và 179 công trình phục vụ đời sống
dân sinh như trường học, trạm y tế[23]
Ba là, Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để người cùng kiệt tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản.
Hỗ trợ người cùng kiệt về y tế: Thực hiện theo Quyết định 139/QĐ – TTg của
Thủ tướng Chính phủ về thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, năm
2005 có 3,6 triệu người cùng kiệt được cấp thẻ bảo hiểm y tế và 4,1 triệu người cùng kiệt
được cấp giấy khám chữa bệnh miễn phí với tổng kinh phí hỗ trợ là 246 tỷ đồng.
Tổng cộng đã có 7,7 triệu người cùng kiệt được hỗ trợ để tiếp cận với dịch vụ y tế
trong năm 2005. So với 2001 số người được hỗ trợ chữ bệnh tăng thêm 3,2 triệu
người. [23]
Hỗ trợ người cùng kiệt về giáo dục: Hàng năm có trên 3 triệu lượt học sinh
cùng kiệt được miễn giảm học phí và các khoảng đóng góp xây trường; 2,5 triệu học
sinh cùng kiệt dân tộc thiểu số được cấp, mượn sách giáo khoa và hỗ trợ vở viết với
tổng kinh phí hàng năm trên 100 tỷ đồng.
Hỗ trợ hộ cùng kiệt về nhà ở: Trợ giúp người cùng kiệt về nhà ở được các địa
phương đặc biệt quan tâm. Cuối năm 2004 cả nước đã hỗ trợ cho 293.137 hộ
cùng kiệt về nhà (trong đó sửa chữa 83.551 nhà và làm mới 209.586 nhà) với tổng
kinh phí trên 1.198 tỷ đồng. Ước tính đến hết năm 2005, cả nước hỗ trợ làm mới
và sửa chữa được khoảng 350.000 căn nhà. Vào tháng 6/2005 đã có 7 tỉnh tuyên
bố về cơ bản đã xóa xong nhà tạm (Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Hải Dương, Hải
Phòng, Bắc Ninh, Hà Nội và Hưng Yên). [23]
Như vậy, trong 5 năm (2001– 2005) đã huy động được 41.000 tỷ đồng cho
mục tiêu giảm nghèo, riêng Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm cùng kiệt
là 21.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương là 3000 tỷ đồng (chiếm
14,28%), ngân sách địa phương 2500 tỷ đồng (chiếm11,90%), huy động từ cộng
đồng1.500 tỷ đồng (chiếm 7,14%), từ lồng ghép các chương trình dự án 2000 tỷ
đồng (chiếm 9,52%) và lớn nhất là nguồn tín dụng 12.000 tỷ đồng (chiếm
57,14%). [23]
1.2.2.2 Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm cùng kiệt ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế sau đây:
Thứ nhất, tốc độ giảm cùng kiệt không đồng đều: Tuy tỉ lệ hộ cùng kiệt giảm
nhanh nhưng tốc độ giảm cùng kiệt giữa các vùng không đều. Tây Bắc, Tây Nguyên,
Bắc Trung Bộ có tốc độ giảm cùng kiệt nhanh nhất và vùng đồng bằng sông Hồng,
Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ cùng kiệt thấp nhất; Tốc độ giảm cùng kiệt của vùng dân tộc
Trang 21
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
thiểu số còn chậm: tuy khu vực niền núi có tỷ lệ giảm cùng kiệt nhanh hơn khu vực
đồng bằng, thành thị nhưng tỷ lệ cùng kiệt đói vẫn cao hơn nhiều. Nhóm dân tộc có tỷ
lệ hộ cùng kiệt còn cao là Vân Kiều 82,2%; Bana 53,3%; Dao 54,3% v.v[23]
Thứ hai, khu vực miền núi có tỷ lệ hộ cùng kiệt còn cao: Các vùng Tây Bắc,
Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên tỷ lệ hộ cùng kiệt còn cao gấp từ 1,7 đến 2 lần so với tỷ
lệ hộ cùng kiệt chung của cả nước (trong năm 2005, tỷ lệ hộ cùng kiệt ở Tây Nguyên
chiếm 36,54%; Tây Bắc tỷ lệ hộ cùng kiệt chiếm đến 43,95 trong khi đó tỷ lệ hộ
cùng kiệt chung của cả nước là 21,85%). Gần 90% hộ cùng kiệt sống ở nông thôn, hộ
cùng kiệt là hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn chiếm tỷ lệ khá cao ở một số tỉnh như
Kon Tum là 80%; Gia Lai 77%...[23]
Thứ ba, kết quả xóa đói, giảm cùng kiệt chưa bền vững: Qua xem xét còn một
tỷ lệ khá lớn hộ gia đình nằm ngay sát cận chuẩn nghèo, cho nên những hộ này
nếu ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status