Tài liệu Tiểu luận triết học - Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường - Pdf 10

- - -    - - -

Tiểu luận triết họ:
Mối quan hệ biện chứng giữa tự
nhiên và xã hội phân tích vấn đề
bảo vệ môi trường
1
MỤC LỤC
MỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU 1
• Vấn đề là gì? 1
• Mục đích của đề tài 2
PHẦN CHÍNH
1. Cơ sở lí luận 3
1.1. Các khái niệm 3
1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội 3
1.2.1. Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên 3
1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong 4
một chỉnh thể thống nhất
1.2.3. Tự nhiên - nền tảng của xã hội 5
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên 5
1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa 6
tự nhiên và xã hội
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta 7
2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam 7
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của 7
Việt Nam
2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam 12
2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam 12
2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam 13

tương lai chính con em mình.
Quan niệm này quả là một sai lầm lớn, thưc tế và lí luận khoa học đều
chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng
nằm trong một tổng thể bao gôm tự nhiên, con người và xã hội.
Con người và xã hội đã dựa trên nền tảng tự nhiên mà tồn tại và phát triển,
nhưng chính trong quá trình tồn tại và phát triển ấythì nền tảng tự nhiên lại bị
phá hủy, đăc biệt là trong thời đại hiện nay khi khoa học kĩ thuật phát triển
mạnh mẽ va dân số toàn cầu đang bùng nổ thì tự nhiên và môi trường càng bị
phá hủy mạnh mẽ hơn. Các nhà bác học nhìn xa trông rộng như Z.Lamark,
4
1820 đã viết: "Mục đích của con người dường như là tiêu diệt nòi giống mình,
trước hết là làm cho Trái Đất trở thành không thích hợp với sự cư trú".
Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt này trở thành sự thật thì đã
đến lúc để hành động trước khi quá muộn. Đã đến lúc con người cần xác định
rõ mối quan hệ giữa xã hội của họ vơí tự nhiên và quan tâm đến các vấn đề môi
trường.
Việt Nam một nước đang trong quá trình CNH-HĐH đất nước, chúng ta
cũng có những vấn đề về môi trường, chúng ta cần phải có quan điểm đúng đắn
để giải quyết những vấn đề này trước khi mọi việc trở nên quá tồi tệ.
Mục đích của đề tài
Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của Triết học Mác-Lênin
về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đồng thời trên cơ sở: Mối quan hệ biện
chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở
Việt Nam.
Bên cạnh đó nó cũng được hi vọng có thể thay đổi được nhận thức xã hội
nhằm tạo ra những thay đổi tích cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo
thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
5
PHẦN MỘT
1. Cơ sở lí luận:

nhu cầu trao đổi thông tin ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai
kích thích chủ yếu chuyển biến bộ não động vật thành bộ não người, tâm lý
động vật thành tâm lý người.
Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các quan hệ giữa người
vứi người, cộng đồng người dần thay đổi từ mang tính bầy đàn sang một cộng
đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển
biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
Vậy xã hội là gì?
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình thái này lấy mối
quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền
tảng. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân
với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người".
Như vậy xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên. Song bộ phận này có tính
đặc thù thể hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức
và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là của con
người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất
định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình
mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
1.2.2. Tự nhiên - Con người - Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất:
Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế tự
nhiên - con người - xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô
cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy
đến cùng có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba
yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống tự nhiên - con người - xã
7
hội bởi chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính,
mối quan hệ khác nhau của vật chát đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui luật, tất cả các quá
trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những qui

động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.
1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên:
Tự nhiên tác động đế xã hội nhiều như thế nào thĩ xã hội cũng tác động lại
vào tự nhiên như thế.
Trước hết phải khẳng định lại rằng xã hội là một bộ phận của tự nhiên như
vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng có nghĩa là tự nhiên thay đổi.
Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với phần còn lại của tự nhiên một cách
mạnh mẽ. Sự tương tác này thông qua các hoạt động thực tiễn của con người
trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên
phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song lao động cũng là yếu tố
đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội
và tự nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và
tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm
trung gian, điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên".
Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: tự nhiên cung
cấp cho con người điều kiện vật chất để con người sống và tiến hành hoạt động
sản xuất. Cũng chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật chất này con
người đã làm biến đổi nó và các điều kiện môi trường xung quanh tức là làm
biến đổi tự nhiên một cách mạnh mẽ. Hoạt động sống và lao động sản xuất của
con người trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên
cũng vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú
như khai thác khoáng sản, đánh bắt cá hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra tự
nhiên
9
Thực tế xã hội luôn tác động tự nhiên. Giờ đây với sức mạnh của khoa học
công nghệ, một lực lượng dân số khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ
hơn bao giờ hết.
Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động nàycon người cần kiểm tra, điều
tiết việc sử dụng khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên, nếu

và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách
đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa
lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức
và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn:
Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động
của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận
thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.
Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người
đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội.
Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn
trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân
bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá
và chịu diệt vong.
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã
hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.
Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang lên
nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng.
Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là
con đường duy nhất.
1.2.6. Môi trường - vấn đề của chúng ta:
11
Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, môi trường và ảnh hưởng
của nó đến sự tồn tại và phát triển của xã hội có lẽ là vấn đề quen thuộc nhất,
nó thường xuyên được nhắc đến quanh ta.
Môi trường là gì?
Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống.
Khái niệm này bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây

người" (Guns, germs and Steel: The Fates of Human Societies", New York:
Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để
giải thích tại sao các nước Tây phương trổ nên thống trị thế giới. Mục đích của
ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng
chủng tộc, văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến những khác
biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau,
trong suốt lịch sử.
Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác
nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự
khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do căn bản
của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa trong quá khứ.
Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là
khởi điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác. Lúc ấy
thì các nước đã có sự khác biệt về trình độ công nghệ và tổ chức chính trị. Phần
lớn Âu, Á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài
nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca và
Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với
đồng. Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu Úc, châu
Mỹ và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông nghiệp,
thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.
Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công nghệ vào khoảng năm
1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.
13
Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những nhóm
dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn
với cách trả lời này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy vào
năm 1500?
Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng hà chấm dứt cho đến
11000 năm trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn
và hái nhặt. Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là giữa lục

như các công nghệ bản địa.
4. Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai. Lục địa càng
rộng càng đông dân thì càng có nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong
một lục địa như vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự tanh
đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát minh và cải cách,
bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các quốc gia khác thống trị, thậm
chí tiêu diệt.
Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến
bộ công nghệ giữa Trung Quốc và Tây phương. Trung Quốc đã có những hạm
đội viễn dương vào những năm đầu của thế kỷ XV nhưng sau đó không lâu thì
lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì lệnh triều đình (cụ
thể là do sự tranh chấp quyền lực giữa các phe trong triều đình lúc ấy). Ở châu
Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được tài trợ cho chuyến đi của
ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi khác từ chối. Theo
Diamond, sự thống nhất của Trung quốc cho phép nước này canh tân trước
phương Tây, song cũng chính sự thống nhất sớm của Trung quốc đã làm giảm
đi khả năng đổi mới của nước này. Triều đình ra lệnh một cái là mọi hoạt động
canh tân dừng lại ngay! Ở châu âu thì khác: Một tiến bộ bị ngăn chặn ở nước
này có thể được tiếp tục ở nước khác. các nước châu Âu đủ gần gũi nhau để
chia sẻ những ý kiến mới, nhưng quyền hành lại không tập trung đến độ có thể
hoàn toàn giết chết một ý mới
15
Có nhiều người có thể không thấy thực sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý
kiến của ông (mà họ cho rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả tất nhiên của
địa lí, cộng với tình trạng dân số ngày càng cao. Nhiều người cho rằng
Diamond coi nhẹ vai trò của trí tuệ và do đó không thấy hết được sự quan trọng
của khoa học trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên trong lời bạt viết thêm khi cuốn
sách này tái bản năm 2003, Diamond khẳng định ông không hề xem nhẹ những
yếu tố về con người, tư tưởng hay văn hóa. Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt
nhiều nghìn năm lịch sử thì vai trò của môi trường và địa lí thực có tính quyết

chứ không phải là quy mô toàn cầu (I.M. Barrett and oth, 1986)
Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa. Mà những cách ứng xử
sai của con người với tự nhiên hiện nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự
nhiên. Do đó chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường va cư xử đúng với
tự nhiên.
Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, cần xóa
bỏ nó, khi xây dựng đựoc chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử tốt hơn
với tự nhiên vì không còn bị lợi nhuận chi phối.

2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam:
Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ môi trường, gìn giữ sự
cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu
dài và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam:
Việt Nam: Những số liệu thống kê chính
Thủ đô : Hà Nội
Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt
17
Đơn vị tiền tệ : đồng
Diện tích : 329.566 km2
Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người
Tốc độ tăng trưởng dân số : 2,3%
Mật độ dân cư : 210 người/km2
Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm
Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7 %
Tổng số diện tích được bảo tồn : 22.976 km2
Số khu vực được bảo tồn : 101
Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Các nguồn tài nguyên Việt Nam:

và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có nhiều hải sản quý
như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc
trai. Ven bờ có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn
một năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm
gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người
dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18
triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.
Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang dã.
Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn
đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực vật
phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động
vật và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự hấp
19
dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là nguồn cung cấp thực
phẩm, là
nguồn dược liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ
trang điểm cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai thác hợp lý. Trung
bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm
1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2).
Về đa dạng sinh học, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800 loài
rêu, 600 loài nấm lớn.2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho
gia súc, lấy gỗ, tinh dầu,1500 loài cây làm dược liệu. Ở dưới nước ngọt có hơn
1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao. Ở biển cũng có hơn 1000
loài tảo.

ngành kinh tế, tài nguyên môi trườngViệt Nam đã bị phá hủy nhiều. Thực sự
Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề về môi trường.
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiên đại hóa đất
nước, nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Sự phát triển công
nghiệp với những công nghệ ít thân thiện với môi trường đồng thời với một hệ
thống chính sách và thực hiện ít hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường đang
làm cho môi trường Việt Nam trở nên ô nhiễm hơn. Cơ chế thị trường cùng với
một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết sẵn sàng khai thác đến cạn kiệt mọi
nguồn tài nguyê vì lợi nhuận. Đói nghèo cũng đẩy nhiều người vào cảnh phải
tàn phá thiên nhiên vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Ngay cả du lịch sinh
thái, khi được tổ chưc không hợp lí cũng phá hủy cảnh quan môi trường. Rác
thải sinh hoạt, công nghiệp, khói bụi ngày càng nhiều hơn và thực sự rất khó
giải quyết.
Bảy vấn đề môi trường gay cấn của Việt Nam:
1. Nạn phá rừng:
Năm 1943 ta có 37% đất phủ xanh
Năm 1975 " 29,1% "
21
Năm 1983 " 23,6% "
Đối với vùng nhiệt đới dưới 30% là khủng hoảng môi trường. Chế
độ thủy văn thay đổi g khí hậu thay đổi g cảnh quan thay đổi g suy thoái
độ đa dạng sinh học.
2. Suy giảm tài nguyên đất: Giảm diện tích bình quân đầu người là do dân
số tăng.
Năm 1940 Việt Nam có 0,2 ha/ người
1960 Việt Nam có 0,18 ha/ người
1970 Việt Nam có 0,15 ha/ người
1980 Việt Nam có 0,13 ha/ người
1990 Việt Nam có 0,11 ha/ người
Năm 2000 Việt Nam có 0,06 ha/ người

Aral ở Trung Á - một nơi ô nhiễm nhất trên Trái Đất. Một thời nổi tiếng la Biển
Xanh, đã từng là hồ nước ngọt lớn thứ tư thế giới, nhưng chỉ trong vòng 30
năm, nó đã bị thu hẹp tới hơn một nửa diện tích và nước của nó trở nên mặn
như nước biển. Khi nguồn nước cạn kiệt và bốc hơi, để lại trong lòng hồ3,6
triệu ha đất bị ô nhiễm và những trận bão dữ dội lại quét lượng đất ô nhiễm này
đổ sang các vùng đất xung quanh. Thực phẩm giờ đây khan hiếm, tỉ lệ tử vong
trẻ sơ sinh đang tăng lên và tuổi thọ của người dân vùng này, theo một số
chuyên gia, đang giảm xuống 20 năm.
Thảm họa sinh thái này là do qua nhiều thập kỉ biển Aral không được chú ý
đến và bị quản lí sai lầm, như khai thác nước quá mức do hệ thống tưới tiêu, để
các chất thải chảy từ sông ra biển một cách bừa bãi, sử dụng một lượng nước
lớn cho thủy điện. Ngày nay, Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế Giới, Liên hiệp
châu Âu và một số nước khác đang huy động nỗ lực quốc tế để phục hồi cân
bằng sinh thái của vùng biển Aral, bổ sung nguồn tài nguyên và cấp bách giải
quyết các vấn đề như sức khỏe cộng đồng, nước, thuốc trừ sâu và những vấn đề
khẩn cấp khác trong cuộc chạy đua với thời gian.
23
Haiti là một ví dụ khác, nước này đã bị mất toàn bộ rừng nhiệt đới do chặt
phá bừa bãi dùng làm chất đốt. Cứ mỗi khi mùa mưa đến nước này lại phải chịu
lũ lụt khủng khiếp, lở đất xói mòn rửa trôi đất canh tác xảy ra ở khắp mọi nơi.
Số liệu về sự mất sinh cảnh ở một số nước có độ đa dạng sinh học cao:
Nước Diện tích còn lại
km
2
Diện tích ban đầu
km
2
%bị mất
INDONESIA 746.860 1.446.430 49%
NAM PHI 531.700 1.236.500 57%

hưởng của việc xả khí thải từ trước vẫn còn làm tăng nhiệt độ và mực nước
biển trong những thế kỉ tới. Bên cạnh đó còn có nhiều thảm họa toàn cầu khác
cũng đang đợi chúng ta.
Mà với tốc độ tăng trưởng khiêm tốn là 3% một năm, nền kinh tế toàn cầu
trong 50 năm tới sẽ có quy mô gấp bốn lần hiện nay. Liệu nền kinh tế to lớn đó
có tạo ra ít căng thẳng về xã hội và môi trường hơn một nền kinh tế nhỏ bé hơn
nhiều hiện nay không?Hay liệu chúng ta có giải quyết được vấn đề hay không?
Câu trả lời là có và lối thoát là phát triển bền vững:
Phát triển bền vững (sustainable development) là một khái niêm mới ra
đời từ Hội nghị về môi trường tại Rio de Zanero năm 1992 có ý nghĩa: một sự
phát triển được coi là bền vững khi nó không làm ảnh hưởng đến khả năng
cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho các thế hệ mai sau.
Những nội dung của phát triển bền vững chủ yếu là quy hoạch sử dụng hợp lý
lâu bền các nguồn ttài nguyên thiên nhiên, chú ý bảo vệ môi trường và gìn giữ
đa dạng sinh học, cân bằng một cách hài hòa lợi ích của người dân và các mục
tiêu bảo vệ môi trường, chú ý đến giáo dục, y tế và cuộc sống của nhân dân.
Một trong 8 Mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ (MDGs) của LHQ là phát triển
bền vững
Mục tiêu 7: Đảm bảo sự bền vững môi trường
- Lồng ghép phát triển bền vững vào các chính sách quốc gia
và đảo ngược sự tổn thất tài nguyên môi trường.
- Giảm một nửa số người không có khả năng tiếp cận nước
sạch
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status