Tài liệu Tiểu luận triết học - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghe - Pdf 10


Tiểu luận triết học :
Phân tích thực chất của cuộc
cách mạng trên lĩnh vực triết học
do Mác - Ăngghe
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung
1. Vấn đề cơ bản của triết học 2
2. Tư tưởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc và nguồn gốc ra đời của Triết
học Macxit 4
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ănghen thực
hiện 9
4. Ý nghĩa 13
Kết luận 15
Tài liệu tham khảo 16
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm.
Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không
đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và
gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực –
phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên
suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát
triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính
vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế
thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người
nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng
trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế

vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì,
một là, đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu không giải
quyết được vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác,
những vấn đề ít chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quyết
định tính chất của thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là
cơ sở tạo ra phương hướng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn
lại. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay
duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.
Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có
trước; ý thức, tinh thần, tư duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn
các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau là trào
lưu duy tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu
chuẩn khoa học duy nhất để xác định các học thuyết triết học đã, đang và sẽ
tồn tại là thuộc trào lưu nào: duy tâm hay duy vật.
Các trào lưu cơ bản trong triết học – chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm – luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu
triết học là biểu hiện về mặt tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp và phản
ánh tồn tại xã hội của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Thông thường,
chủ nghĩa duy vật là biểu hiện về mặt triết học của hệ tư tưởng các giai cáp
và các tầng lớp tiến bộ, các lực lượng xã hội quan tâm đến sự phát triển xã
hội. Chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết học của các giai cấp, các
nhóm xã hội bảo thủ, các đảng phái chính trị phản động, không quan tâm đến
sự phát triển xã hội. Các nhà duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng của các
lực lượng xã hội tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết quả của khoa học
tiến tiến mà thực tiễn làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy
tâm luôn luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận
cứ triết học duy tâm.
Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ người bóc lột người,
việc tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay là những nguyên nhân xã hội
làm cho chủ nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các giai cấp bóc lột,

tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vạt chất. Đó cũng chính là sự thể
hiện riêng về mặt triết học những lời khưảng định của tôn giáo rằng Thượng
đế sáng tạo ra thế giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói. Song, cái mới
trong học thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm
tuyệt đối là một quá trình tự phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết
học hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt
đối, tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi
tồn tại.
Hêghen đã phê phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đã lấy
phép biện chứng đem đối lập với nó.
Các yếu tố biện chứng duy tâm có trong các tác phẩm triết học duy
tâm trước Hêghen, nhưng phép biện chứng duy tâm với tính cách là phương
pháp ít nhiều hoàn chỉnh thì do Hêghen lập ra
Công lao của Hêghen so với những người tiền bối của ông là ở chỗ đã
phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm trù quan trọng
nhất của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ bản của tư
duy: quy luật chuyển hoá từ lượng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau
của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
- Phoi ơbắc: là nhà triét học duy vật, đại biểu cho tâng lớp dân chủ cấ
tiến trong giai cấp tư sản Đức. Ông đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen. Ông đã phê phán ý niệm tuyệt đối của Hêghen cũng
như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của
triết học duy vật.
Khi chống lại quan điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là “tồn
tại khác” của tinh thần, Phoi ơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự
nhiên tồn tại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ
sở sinh sống của con người. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo, nó tồn tại,
vận động nhờ những cơ sở bên trong nó.

thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình
yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con
người thành mối quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện
của xã hội tư sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ
nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc về tình yêu thương giữa con người trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi
ơbắc đã không biết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý” mà đã vứt bỏ luôn cả
phép biện chứng của Hêghen.
Mặc dù có nhưng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý
nghĩa to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc
lý luận quan trọng của triết học Mác
b) Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít
Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử) là bộ phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng
thời là chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư
tưởng nhân loại.
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác
đã chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn hẳn phương
thức sản xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
những mâu thuẫn giai cấp – xã hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và
ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và
tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá
và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển
mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành cuộc
khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi nghĩa của công nhân

chuyển hoá năng lượng. R.Maye và P.P Giulơ đã nên lên thành định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là
một quá trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của
chúng. Các nhà sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđen đã đưa ra lý
luận tế bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển
của tất cả các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát
triển của cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế
bào.
Nhà khoa học người Anh là Đácuyn cũng đã phát hiện là lý luận duy
vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về
sự xuất hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính
quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình
thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy
luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ
phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa
xã hội khoa học.
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác -
Ăngghen thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng
thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng
của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh
hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của
Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, Mác và

quyền của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các
vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây,
ông đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các
nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm
1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác đăng trên Niên
giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 đã thể hiện
rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai
ông độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi
với họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách
là giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và
phương thức sản xuất mới trong tương lai, vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời
kỳ này, qua nghiên cứu và thực tiễn, các ông đã khắc phục được phép biện
chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, hình thành
những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình phát triển thế giới quan của Mác là một quá trình không đơn
giản, mà nó được gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị –
xã hội. Đó là một qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo chủ nghĩa duy
vật cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải
thích theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết
học, khắc phục phép siêu hình. Đó là một quá trình đồng thời khắc phục
phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học của Mác khác về chất với triết học của Phoi ơbắc và Hêghen.
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới
phỏng đoán phép biện chứng của sự vật trong phép biện chứng của ý niệm.
Đối lập với Hêghen, Mác và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái
niệm chỉ là sự phản ánh phép biện chứng của thế giới khách quan trong ý
thức của con người. Lời mở đầu tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen đăng trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 –1844, đã thể hiện rõ sự

mạng đối với xã hội. Mác viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là
vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh
thần của mình”
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nước và pháp quyền,
Mác thực hiện một thể nghiệm đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ
nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch
sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phương
pháp tạo ra khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã
hội, cho phép giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức không
thể giải quyết được nếu đứng trên lập trường của phép biện chứng duy tâm,
hay đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Bởi vậy, ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên, Mác đã bắt đầu nghiên
cứu những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật
lịch sử. Đồng thời với Mác, Ăngghen cũng đã nghiên cứu những nguyên tắc
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chứng cứ hùng hồn là bài báo Sơ thảo về
phên phán kinh tế – chính trị học cùng đăng trên Niên giám Pháp - Đức số
tháng 2 – 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra vào
tháng 11-2842, khi Mác làm biên tập viên cho Báo Rainơ. Tháng 8-1844, tại
Pari, trên đường từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai. Và từ đó, hai
ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong cả cuộc đời. Từ đó hai ông
cùng làm việc để sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý luận của chủ nghĩa
xã hội khoa học.
4. Ý nghĩa
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như
vị trí của triết học trong hệ thống trị thức khoa học cũng biến đổi.
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau
song vấn đề là cải tạo thế giới” Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau
về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học trước kia, kể cả
những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy vậy, Mác không hề phủ nhận, trái lại

biện chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý luận triết học của chủ
nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
KẾT LUẬN
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Mác và Ăngghen đã giải
thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch
sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học- Bộ Giáo dục và đào tạo
2. Giáo trình triết học – Học viện CTQG Hồ Chí Minh
3. Tạp chí Giáo dục lý luận
4. Tạp chí Lý Luận chính trị
5. Tạp chí Cộng sản


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status