Tài liệu Đề tài “ Quản trị danh mục sản phẩm của tổng công ty chăn nuôi VN’’ - Pdf 10


 Đề tài: Quản trị danh mục sản phẩm của
Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam

ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP Giáo viên hướng dẫn : G.V: Nguyễn Thị Tâm
Sinh viên : Vũ Văn Tuyến
Lớp : Marketing 44b

Đề tài: Quản trị danh mục sản phẩm của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam .

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước phải đối diện trực
tiếp với thị trường, phải thay đổi cách thức làm ăn mới có thể tồn tại và phát
triển bền vững trong cơ chế thị trường nhất là trong thời đại tự do hoá thương
mại như hiện nay Do đó các doanh nghiệp phải tự đổi mới về mọi mặt để tạo
ra được hàng hoá có sức cạnh tranh cao.
Là doanh nghiệp nhà nước, Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam đã dần từng
bước thích nghi được với cơ chế thị trường để tăng trưởng và phát triển. Các sản
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm:
Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả các chủng loại hàng hoá và các đơn
vị hàng hoá do một người bán cụ thể đem chào bán cho người mua. Danh mục
hàng hoá được phản ánh qua bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài
hoà của nó.

công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều có chung một mục đích là
đem lại lợi ích cho các nước tham gia.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương
nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ
chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao
quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ
này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn
nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ
đầy đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên
cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu
hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng giá cả, xu hướng biến động của nó ở thị
trường nước ngoài. Ngoài ra vấn đề mà những người tham gia hoạt động xuất
khẩu cần quan tâm là những tập tục, thói quen, những rào cản văn hoá v.v… của
mỗi quốc gia nhập khẩu. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong
tư duy mỗi nhà kinh doanh Thương mại Quốc tế.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp.
Cùng với quá trình phát triển lâu dài của mình, các hình thức kinh doanh
xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Hầu hết các hình thức đều
cố gắng khai thác tối đa những lợi thế do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên trong
điều kiện nền kinh tế như nước ta hiện nay việc huy động tất cả những nguồn
lực, những hình thức xuất khẩu chưa thực sự được khai thác tối đa, các hình
thức xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn nghèo nàn
và chưa sử dụng được các nguồn lực trong nước để xuất khẩu có hiệu quả cao
như các nước khác trong khu vực. Đây cũng thực tế mà TCT đang phải đối mặt,
tuy nhiên với việc hỗ trợ của nhà nước TCT đang ngày dần hoàn thiện mình và
trở thành mũi nhọn hàng đầu trong lĩnh vực chăn nuôi và xuất khẩu thức ăn.m
Theo Nghị định 33/CP (19/ 4/ 1994) thì hoạt động xuất khẩu ở nước ta
bao gồm các hình thức chủ yếu sau đây:

cho họ và thường nảy sinh mâu thuẫn về phân chia lợi nhuận giữa người sản
xuất và người trung gian. Khác với hình thức xuất khẩu trực tiếp, trong hoạt
động xuất khẩu uỷ thác tất cả mọi việc kiến lập quan hệ giữa người xuất khẩu và
người nhập khẩu cũng như việc qui định các điều kiện mua bán phải thông qua
một người thứ 3 được gọi là người nhận uỷ thác. Người nhận uỷ thác tiến hành
hoạt động xuất khẩu với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên có
hàng xuất khẩu, bên uỷ thác thanh toán. Về bản chất chi phí trả cho bên nhận uỷ
thác chính là tiền thù lao trả cho đại lý. Doanh nghiệp cũng không thể kiểm soát
việc tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài.
*Xuất khẩu gián tiếp có 4 khả năng lựa chọn sau:
-Xuất khẩu thông qua hãng xuất khẩu trong nước.
-Xuất khẩu thông qua đại lý xuất khẩu.
-Xuất khẩu thông qua hiệp hội xuất khẩu.
-Xuất khẩu thông qua việc sử dụng kênh phân phối của người thứ ba đã
tồn tại để tiêu thụ sẩn phẩm của họ.
2.3. Buôn bán đối lưu:
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu phải kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu. Nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập khẩu, mục đích để thu về
hàng hoá có giá trị tương đương với hàng xuất khẩu bởi vậy nó còn gọi là
phương thức đổi hàng. Trong hoạt động xuất khẩu này yêu cầu cân bằng về mặt
hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện giao hàng được đặc biệt chú ý.
2.4. Gia công quốc tế:
Là phương thức kinh doanh người đặt mua gia công ở nước ngoài cung
cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu theo mẫu hàng và định mức trước.
Người nhận gia công làm theo yêu cầu của khách hàng, toàn bộ sản phẩm
làm ra người nhận gia công sẽ giao lại toàn bộ cho người đặt gia công và để
nhận tiền gia công gọi là phí gia công.
Gia công quốc tế là hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản
xuất, thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu cũng chính là nơi
tiêu thụ mặt hàng đó, đồng thời nó có tác dụng là xuất khẩu lao động tại chỗ,

lớn hơn và lâu dài hơn. Tuy nhiên để có thể khẳng định được sản phẩm của
mình trên thị trường quốc tế đòi hỏi bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải chiến
lược nghiên cứu cụ thể và một sự đầu tư nhất định.
Tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận quan trọng của hoạt động thương mại
doanh nghiệp bởi hàng hoá được sản xuất ra, mua về phải được tiêu thụ, đó là
điều kiện quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường,
với việc gia tăng hàng hoá ngày càng nhiều trên thị trường, nhiều doanh nghiệp
đã chuyển hướng từ sản xuất sang tiêu thụ. Những cố gắng này càng ngày càng
có ý nghĩa to lớn hơn trong việc thực hiện mục đích kinh doanh. Từ đó, khái
niệm MARKETING xuất hiện với nghĩa: mọi cố gắng của doanh nghiệp đều
hướng đến mục đích cần thiết là tiêu thụ sản phẩm, hướng về những thị trường
đang còn bỏ ngỏ. Hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều các đối thủ cạnh tranh
đây cũng là một cơ hội để doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình, tuy
nhiên nguy cơ bị mất thị trường là rất lớn. Một thị trường không thể tồn tại quá
nhiều các đối thủ cạnh tranh vì vậy xu thế xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc
tế ngày càng phát huy được tác dụng làm giảm bớt sự tắc nghẹn trong khâu tiêu
thụ của doanh nghiệp.
Như vậy xuất khẩu đóng góp vào quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước
kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ nông nghiệp sang công nghiệp phù
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới.
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng vì nó tạo điều kiện mở rộng
khả năng tiêu dùng của một nước. Ngoại thương cho phép một nước có thể sử
dụng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn giới hạn khả năng sản xuất.
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả
sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân
công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế
tạo từng bộ phận được thực hiện ở nhiều nước khác nhau. Để hoàn thiện được
sản phẩm đó, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước
khác để lắp ráp.

thiện đời sống nhân dân tác động của xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều tới các lĩnh
vực của cuộc sống như: giúp làm phong phú mặt hàng trong nước, nâng cao sự
chọn lựa cho người tiêu dùng. sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút được hàng
triệu lao động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để
nhập khẩu hàng tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu ngày càng phong phú của nhân dân.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế trên cơ sở vì
lợi ích mỗi bên, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động
quốc tế. Xuất khẩu là một trong những nội dung chính trong chính sách đối
ngoại của nước ta đối với các nước trên thế giới vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh. Như vậy có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc
giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách
quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quá trình phát triển nền kinh tế.
* Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có thêm rất nhiều cơ
hội để tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn và với các chủng loại
hàng hoá phong phú đa dạng khác nhau.
+ Nhờ có xuất khẩu mà doanh nghiệp luôn luôn sẵn sàng đổi mới và hoàn
thiện cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường và theo kịp sự phát
triển chung của thế giới.
+ Doanh nghiệp trong quá trình tiền hành hoạt động xuất khẩu có nhiều
cơ hội mở rộng quan hệ làm ăn buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài. Qua đó
sẽ tiếp thu được nhiều kinh nghiệm trong việc kinh doanh , quản lý doanh
nghiệp của mình.
+>Nguồn ngoại tệ do xuất khẩu mang lại giúp doanh nghiệp có thêm
nguồn tài chính mạnh để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về chiều rộng cũng
như chiều sâu.
+>Doanh nghiệp có thể mang lại lợi ích cho xã hội nhiều hơn thông qua
sản xuất hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động tạo thu nhập ổn định, đồng thời
tạo ra thu nhập để nhập khẩu vật tư, tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng phục vụ
cho sản xuất cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI DOANH

nghiên cứu thị trường phải lắm rõ tất cả các đặc tính, mức tiêu thụ, khả năng
cạnh tranh của sản phẩm v v. Sản phẩm thịt lợn khi xuất khẩu ra thị trường thế
giới sẽ có nhiều khó khăn trong việc thống nhất độ an toàn, sự kiểm định về chất
lượng chung của hai bên. Vì thế để lựa chọn được thị trường phù hợp cho sản
phẩm của mình bắt buộc mỗi doanh nghiệp phải có sự đầu tư và nghiên cứu cụ
thể thị trường muốn tung sản phẩm vào.
Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp
chính:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Là thu nhập các thông tin từ các nguồn tài
liệu đã được xuất bản công khai hay bán công khai, xử lý các thông tin đó.
Đây là phương pháp phổ thông nhất vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả
năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy
nhiên nó cũng có hạn chế như chậm và mức độ tin cậy không lớn.
- Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Là việc thu nhập thông tin chủ
yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Đây là một phương
pháp đem lại những thông tin chính xác, thường xuyên được xử lý giúp
người xử dụng có phản ứng linh hoạt hơn. Song đây cũng là một hoạt động
tốn kém và không phải ai cũng có đủ trình độ để làm được.
Việc nghiên cứu thị trường có thể hiểu một cách đơn giản nhất là tìm
kiếm câu trả lời thoả đáng cho những câu hỏi mà doanh nghiệp xuất khẩu buộc
phải làm:
* Phân bố dân cư trong địa bàn ra sao ?
* Mức thu nhập của dân cư ?
* Trình độ văn hoá và nghề nghiệp phổ biến của dân cư.
* Phong tục, tập quán của thị trường.
* Yếu tố chính của thị trường.
* Sản phẩm cùng chủng loại hoặc tương tự như sản phẩm của doanh
nghiệp đã xuất hiện trên thị trường chưa ?
* Phản ứng của người tiêu dùng với sản phẩm đó.
* Sức tiêu thụ những sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường ?

* Chi phí bảo hiểm.
* Chi phí khác.
Hiện nay Tổng công ty chăn nuôi VN đã dần khẳng định được vị thế của
mình trên thị trường thế giới, sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang một số
thị trường chính như: Trung Quốc, HongKong, Nga, Nhật, v.v…Tuy nhiên do
yêu cầu ngày càng cao của người dân cũng như do sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật mà yêu cầu chất lượng thịt lợn ngày càng cao. Tổng công ty chăn nuôi VN
đang đứng trước nhiều khó khăn nhất định, những khó khăn về việc áp dụng dây
chuyền công nghệ trong khâu chế biến, cũng như trong quá trình chăn nuôi, vì
thế khi xuất khẩu thịt lợn ra thị trường thế giới công ty đã mất đi rất nhiêu lợi
thế cạnh tranh của mình như giá xuất khẩu thường cao, chất lượng của sản phẩm
chưa đáp ứng được một số thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, Đài Loan,v.v…Để
hạn chế nhược điểm đó thì TCT đã chọn cho mình những thị trường phù hợp với
khả năng cạnh tranh cũng như yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Ngoài ra TCT
còn đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp.
2 - Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh:
* Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường, đơn vị kinh doanh xây dựng và kế hoạch kinh doanh của mình. Việc
xây dựng bao gồm: Đánh giá tình hình thị trường, sức mua, khả năng cạnh tranh,
thị hiếu của người tiêu dùng , đưa ra bức tranh tổng quát về hoạt động kinh
doanh, những thuận lợi và khó khăn.
* Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
* Đề ra mục tiêu cụ thể như: Bán sản phẩm ở thị trường nào, bán bao
nhiêu và với giá bao nhiêu?
* Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
* Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số
các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ.
- Chỉ tiêu thời gian hoà vốn.
- Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi.

trên thị trường. Với nguồn hàng này, nhà xuất khẩu phải có đầu tư, có đơn đặt
hàng với nhà sản xuất, và đây là nguồn hàng rất quan trọng trong xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định chủng loại mặt
hàng, kích cỡ, mẫu mã , công cụ, giá cả, thời vụ những đặc điểm, tính năng riêng
của từng mặt hàng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải xác định được xem mặt
hàng dự định xuất khẩu có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài
về những chỉ tiêu kỹ thuật, kinh tế hay không ?
M ặt khác nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn phải xác định được giá cả
hàng hoá đó trong nước, so sánh với giá quốc tế để dự tính được mức lãi sẽ thu
được. Bên cạnh đó, người làm công tác này cũng cần tìm hiểu chính sách quản
lý của Nhà nước về mặt hàng đó như thế nào ?
T ất cả những công việc trên sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro của
thị trường, tiến hành khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp
lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.
Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua đại lý và chi nhánh mình,
doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng xuất
và hiệu quả thu mua.
H ệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho tàng ở các
địa phương, các khu vực có loại hàng thu mua. Chi phí này khá lớn, do vậy
doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc trước khi chọn đại lý và xây dựng
kho, đặc biệt là những kho đòi hỏi phải trang bị những phương tiện hiện đại, đắt
tiền. Hệ thống thu mua đồng thời phải gắn với các phương án vận chuyển hàng
hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương.
Ngoài ra đầu tư cho người sản xuất cũng là một cách làm chắc chắn, lâu
dài để đảm bảo có nguồn hàng ổn định trước sự tranh mua trên thị trường nội
địa. Tuy vậy, do yêu cầu của đầu tư nên các doanh nghiệp phải có vốn lớn và
cũng chứa đựng nhiều rủi ro do sự biến động của thị trường, nhất là khi giá cả
trên thị trường hạ xuống dưới mức kinh doanh có lãi. Trong việc này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ thuật cao, hiểu biết về sản

mất mát trừ khi những sự cố đó là do bất khả kháng gây ra.
Cuối cùng là công việc xuất kho hàng xuất khẩu. Trong công đoạn này
cần chú ý nhất là phải có đầy đủ các giấy tờ, hoá đơn hợp lệ.
3.2 - Đàm phám, ký kết hợp đồng xuất khẩu.
- Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Có
nhiều hình thức đàm phám khác nhau:
Đàm phám qua thư tín: Đây là hình thức chủ yếu để giao dịch kinh doanh
giữa các nhà xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường là qua thư từ,
Ngay cả khi hai bên có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì duy trì quan hệ qua thư tín
thương mại vẫn là cần thiết. So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết
kiệm được rất nhiều chi phí. Trong cùng một lúc có thể giao dịch được với nhiều
khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Mặt khác, người viết thư tín cũng có điều
kiện để cân nhắc suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thế khéo léo
dấu kín được ý định của mình. Tuy nhiên, giao dịch bằng thư tín thường mất rất
nhiều thời gian và do đó có thể bỏ lỡ mất thời cơ mua bán. Người ta có thể sử
dụng điện tín để khắc phục nhược điểm này.
Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: Gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao
đổi mọi điều kiện buôn bán là một hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức này
đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho
những đàm phán bằng thư tín đã kéo dài quá lâu mà không có kết quả. Đàm
phán bằng gặp gỡ trực tiếp tuy hiệu quả hơn hình thức bằng thư tín, điện tín,
song đây cũng là hình thức đàm phán khó khăn nhất, đòi hỏi người tiến hành
đàm phám phải giỏi nghiệp vụ, tự tin, phản ứng nhạy bén đủ tỉnh táo và bình
tĩnh do xét ý đồ của đối phương.
- Mặc dù có sự khác nhau giữa các hình thức đàm phán song nhìn chung
các cuộc đàm phán đều tập trung giải quyết những nội dung sau:
Chào giá (phát giá): Là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng
của mình là thời cơ đề nghị ký kết hợp đồng. Trong chào hàng, nhà xuất khẩu
phải nêu rõ tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, điều kiện, cơ sở giao hàng,

phép xuất
kh

u
Chuẩn bị
hng hoá
Giao
hng lên
tu
Lm thủ
tục hải
quan
Kiểm
nghiệm
hng hoá
Uỷ thác
thuê tu
Mua bảo
hiểm
Lm thủ
tục thanh
toán
Giải
quyết
khi
ế
un

i


- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Việc đóng gói bao bì phải căn cứ vào
hợp đồng đã ký kết. Bao bì phải đảm bảo được phẩm chất của hàng hoá, dễ nhận
biết hàng hoá, gây ấn tượng cho người mua.
- Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được
ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc giao
nhận, bỗc dỡ, bảo quản hàng hoá. Khi kẻ ký mã hiệu hàng hóa phải đảm bảo nội
dung cần thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vận chuyển và bảo
quản hàng hoá, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu.
* Thuê tàu:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, việc thuê tàu chở
hàng dựa vào các căn cứ sau đây:
- Hợp đồng xuất khẩu.
- Đặc điểm hàng hoá xuất khẩu.
- Điều kiện vận tải.
Chẳng hạn, nếu điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng là CIF hoặc
CRF thì người xuất khẩu có trách nhiệm phải thuê tàu. Nếu là FOB thì trách
nhiệm thuê tàu lại thuộc về người nhập khẩu.
Nếu hàng hoá xuất khẩu cần phải bảo quản tươi sống thì cần phải thuê tàu
chuyên dụng có thiết bị đông lạnh. Hay cần chở hàng có khối lượng nhỏ lẻ
người ta thường không thuê tàu chuyến mà thuê tàu chợ.
Như vậy, trên thực tế người xuất khẩu có nhiệm vụ thuê tàu hay không
còn tuỳ thuộc vào điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng đã ký kết.

* Kiểm nghiệm hàng hoá.
Kiểm tra lại chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết và quan
trọng vì nhờ công tác này mà quyền lợi của khách hàng được bảo đảm, ngăn
chặn kịp thời những hậu quả xấu phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các khâu
sản xuất cũng như tạo nguồn hàng, đảm bảo uy tín của nhà xuất khẩu cũng như
nhà sản xuất trong quan hệ buôn bán.
Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status