Tài liệu Báo cáo: Thị trường khoai tây 4/2008 - Pdf 10

BÁO CÁO:
THỊ TRƯỜNG KHOAI TÂY THÁNG 4/2008
Giới thiệu chung
Hiện nay, khoai tây là cây lương thực quan trọng đứng thứ 3 trên thế giới. Loại cây này được
người Pháp mang đến Việt Nam hơn 100 năm trước đây. Sản xuất khoai tây tại Việt Nam phát
triển mạnh nhất vào những năm 1979, 1980 sau đó giảm dần. Nhu cầu về khoai tây cũng như
việc sản xuất loại cây này, bắt đầu phát triển mạnh mẽ trở lại từ năm 1998. Đến nay, cây khoai
tây ở Việt Nam có diện tích 35.000-37.000 ha và sản lượng 420.000-450.000 tấn, đáp ứng được
khoảng 50% nhu cầu trong nước. Nhu cầu về khoai tây cho xuất khẩu đạt khoảng 12.000 tấn
(năm 2005), năm 2010 ước khoảng 20.000 tấn. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn nhất của Việt Nam
khi phát triển diện tích khoai tây lên 50.000 ha vào năm 2010 đó là giống. Hiện nay, giống khoai
tây ở trong nước mới chỉ đáp ứng 20 đến 25% nhu cầu, số còn lại phải nhập khẩu từ Trung Quốc
nên không kiểm soát được chất lượng giống.
I. Thị trường trong nước
1. Tình hình sản xuất tại các địa phương
Khoai tây là sản phẩm vụ đông quan trọng, đặc biệt là ở những vùng như Đồng bằng Sông Hồng
và miền núi phía Bắc Việt Nam với tổng lượng sản xuất chiếm khoảng 85% sản lượng khoai tây
của Việt Nam. 15% sản lượng khoai tây còn lại được trồng quanh năm ở Đà Lạt.
Vùng Đồng bằng Sông Hồng có khí hậu mùa đông, tạo ra nét khác biệt và lợi thế để phát triển
khoai tây. Khoai tây ở vùng Đồng bằng Sông Hồng thường được trồng vào vụ đông từ 14/10-
30/11 và nguồn cung cấp khoai tây trong nước chỉ sẵn có trong 6 tháng (từ tháng 12 đến tháng
5). Vụ đông năm 2007/2008, diện tích khoai tây tại vùng ĐBSH là 35.000 ha. Các giống khoai
tây thường được sử dụng để trồng trên đất lúa chuyển đổi là các giống khoai tây chất lượng cao
như Diamant, Solara, KT3, KT2, KT3, Mariella, Solara Trong các loại giống trên, giống KT2,
KT3 thường được trồng phổ biến tại Bắc Ninh, Nam Định, Bắc Giang Hiện nay, 60% giống
KT2 đang được trồng, đem lại năng suất cao. Một số giống khoai tây thương phẩm của Trung
Quốc đã dần được thay thế bằng các giống khoai tây Đức (Magia và Sonona).
Tại Nam Định, với điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo ra nét khác biệt và lợi thế để phát triển
khoai tây so với các vùng khác thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng và các vùng khác trong cả
1
Dự án hỗ trợ phát triển khoai tây Gtz tại Việt Nam

bảo quản khoai tây giống tại tỉnh này đã giúp giảm tỷ lệ hao hụt từ 50-60% xuống còn 5-10%,
giảm nấm bệnh, tránh ô nhiễm môi trường và tăng năng suất từ 15-20% so với phương pháp thủ
công tán xạ trước đây. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống kho lạnh mới chỉ đáp ứng được gần 20%
nhu cầu giống của tỉnh. Vì vậy, trong năm 2008, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục đầu tư thêm 5 kho lạnh
mới để thực hiện các đề án sản xuất giống khoai tây sạch bệnh bằng phương pháp nuôi cấy mô tế
bào, sản xuất giống khoai tây nguyên chủng, khoai tây trái vụ.
2
STT Tỉnh Số kho lạnh Công suất
1 Nam Định 31 1000-2000 tấn/kho
2 Thái Bình 62 30 tấn/kho
3 Lạng Sơn 8 35 tấn/kho
4 Bắc Giang 6 -
5 Nghệ An 0 -
Nguồn: Tổng hợp từ các website của các tỉnh
3. Giá cả
Tại thị trường Miền Nam:
Tháng 4/2008, giá khoai tây tại chợ Đầu Mối Tam Bình thành phố Hồ Chí Minh tương đối ổn
đinh, trung bình ở mức 9.000-9.300 đồng/kg. Tại Chợ đầu mối Bình Điền, trong tuần này tháng
4/08 có sự biến động về giá, đang ở mức 7.000 đồng/kg, giảm xuống 6.000 đồng/kg và tăng vọt
lên 8.000 đồng/kg. Trung tuần tháng 4/08, giá khoai tây tại chợ đầu mối Bình Điền ở mức ổn
định, đạt mức 6.000 đồng/kg. Tuy nhiên, tuần cuối tháng 4, lại có sự biến động về giá, tăng từ
1.000-2.000 đồng/kg so với thời điểm trung tuần tháng 4, đạt mức 7.000-8.000 đồng/kg.
Giá bán khoai tây tại chợ đầu mối Hóc Môn cao hơn so với hai chợ đầu mối Bình Điền và Tam
Bình. Giá khoai tây tại chợ đầu mối Hóc Môn biến động nhiều hơn so với hai chợ đầu mối trên.
Tuần đầu tháng 4/08, khoai tây được bán với giá từ 9.000-9.500 đồng/kg, thì đến tuần 2 tháng 4
giá đã tăng lên ở mức 11.000-12.000 đồng/kg. Tuần 3 tháng 4, giá bán khoai tây trở lại mức đầu
tháng, ở mức 9.000-10.000 đồng/kg. Tuy nhiên, tuần cuối tháng 4, giá lại tăng trở lại, đạt mức
11.000-12.000 đồng/kg.
Tại thị trường Lâm Đồng (Đà Lạt), nơi hàng năm cung cấp 15% sản lượng khoai tây cho cả
nước, nên giá bán lẻ khoai tây tại thị trường này ở mức thấp, trung bình từ 6.000-7.000 đồng/kg.

ty lớn đang tham gia vào công nghiệp chế biến khoai tây, chủ yếu thuộc về tư nhân và đầu tư với
nước ngoài. Các công ty lớn tham gia chế biến các sản phẩm từ khoai tây như Công ty TNHH
An Lạc, Công ty LeeWayWay, Công ty Vinafood. Ngoài ra, có hàng nghìn các cơ sở nhỏ cũng
tham gia vào chế biến khoai tây, bán cho người tiêu dùng, các nhà hàng và các khách sạn tại thị
trường trong nước.
Theo kết quả khảo sát của Dự án Thúc đẩy Sản xuất Khoai tây Việt Nam, tỷ trọng thị trường
khoai tây chế biến nội địa như sau: 40% sản phẩm tiêu thụ ở siêu thị; 20% bán cho các nhà hàng
khách sạn; 30% tiêu thụ qua đại lý; 5% bán cho các trường học và 5% bán cho người bán rong.
Tuy nhiên, tại Việt Nam khoai tây chế biến vẫn chưa thực sự được coi là món ăn phổ biến. Dạng
sản phẩm chủ yếu được người tiêu dùng yêu thích là khoai tây chiên, rất ít người quan tâm tới
các dạng sản phẩm khác. Nguyên nhân là do khoai tây chế biến còn rất mới với hầu hết người
tiêu dùng. Một nguyên nhân khác là người tiêu dùng đã từng sử dụng các sản phẩm chế biến từ
khoai tây nhưng không để ý đấy là sản phẩm của khoai tây.
Hiện nay, tổng nhu cầu khoai tây dành cho chế biến khoảng 15.000 tấn/năm, nhưng chỉ có 35%
trong số đó là sử dụng nguyên liệu trong nước, các nhà chế biến vẫn phải nhập khẩu khoảng
10.000 tấn khoai tây/năm từ Anh, Trung Quốc, Hà Lan. Mặc dù mỗi năm Việt Nam sản xuất từ
500.000 – 700.000 tấn khoai tây nhưng con số đưa vào sử dụng chế biến là rất ít. Nguyên nhân là
do: (i) nguồn cung trong nước mang tính thời vụ cao, thường canh tác vào vụ đông xuân, nên
khoai tây trong nước chỉ sẵn có trong 6 tháng (từ tháng 12 đến tháng 5), trong khi nhu cầu đòi
hỏi cung cấp nguyên liệu suốt trong năm; (ii) chất lượng khoai tây trong nước đang là một trong
những trở ngại đối với ngành chế biến khoai tây; (iii) ngay cả khi đã có một số hợp tác xã đã sử
dụng vật liệu trồng tốt và giống chất lượng cao, nhưng sản lượng của các đơn vị này chưa nhiều
nên vẫn không đủ sản phẩm cho chế biến.
5. Chính sách
Vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với ngành sản xuất khoai tây của Việt Nam đó là khoai tây
giống. Hiện nay, khoai tây giống trong nước mới chỉ đáp ứng 20 - 25% nhu cầu, số còn lại phải
nhập khẩu từ Trung Quốc nên không kiểm soát được chất lượng giống. Do vậy, để thực hiện mục
tiêu dần thay thế khoai tây Trung Quốc làm giống bằng các khoai tây giống từ Đức, Hà Lan sạch
bệnh cho năng suất và chất lượng cao, tại một số địa phương đã ban hành những chính sách hỗ
5

trồng khoai tây là một nguồn thu lớn cho hàng triện nông dân.
Khi nền kinh tế của nhiều nước còn khó khăn, khoai tây được tiêu thụ khá phổ biến như loại
lương thực chính, đặc biệt trong những lúc giáp hạt. Nay khoai tây lại đang được xem là một
trong những giải pháp giải quyết vấn đề đói lương thực do giá lương thực tăng cao, dân số thế
giới tăng nhanh (cứ 10 năm dân số thế giới lại tăng thêm 1 tỷ người), giá phân bón và dầu diesel
6
cũng leo thang và ngày càng nhiều diện tích đất được dùng để canh tác các loại cây nguyên liệu
cho sản xuất nhiên liệu sinh học.
Nhiều chính phủ trên thế giới đã bắt đầu coi trọng mặt hàng khoai tây. Các nước đang phát triển
là nơi khoai tây được trồng mới nhiều nhất và do nhu cầu tiêu thụ khoai tây tăng cao, các nhà
nông nghèo đang có cơ hội kiếm nhiều tiền hơn từ trồng khoai tây.
Trước tình hình giá bột mì tăng gấp đôi so với năm ngoái, chính phủ Pêru phải nỗ lực để giảm
giá nhập khẩu bột mỳ và đã khởi xướng chương trình sản xuất bánh mỳ từ bột khoai tây. Bánh
mỳ khoai tây được cấp cho trường học và quân đội, với hy vọng xu hướng này sẽ được hưởng
ứng. Tuy nhiên, hiện nay cũng chưa có nhiều các xưởng sản xuất bột khoai tây. Khoai tây xuất
hiện tại Pêru cách đây 8.000 năm nhưng người dân Pêru lại ăn ít khoai tây hơn người dân Châu
Âu.
Bêlarút hiện là nước đứng đầu thế giới về lượng khoai tây tiêu thụ tính theo đầu người, ở mức
171 kg/người/năm. Ấn Độ cũng có kế hoạch tăng gấp đôi sản lượng khoai tây trong vòng 10 năm
tới. Chính phủ Ấn Độ cũng vừa đề nghị Nafed (Liên đoàn Tiếp thị hợp tác nông nghiệp Ấn Độ)
thu mua khoai tây ở bang Utar Pradesh và West Bengal, là nơi đang bội thu loại củ này để phân
phối cho bang khác.
Trung Quốc, nước sản xuất khoai tây lớn nhất thế giới với sản lượng 72 triệu tấn năm 2007 và
trong thời gian tới đây khoai tây sẽ trở thành cây lương thực chính trên các cánh đồng của nước
này. Ở Latvia, giá lương thực tăng khiến lượng bánh mì tiêu thụ giảm từ 10 đến15% trong tháng
một và tháng hai và lượng tiêu thụ các sản phẩm làm từ khoai tây tăng 20%.
FAO ở Bangladesh khuyến nghị toàn dân nước này có thể trông cậy nhiều hơn vào khoai tây để
bù đắp cho sự thiếu hụt gạo. Hơn nửa triệu binh lính trong quân đội Bangladesh cũng vừa nhận
chỉ thị phải ăn khoai tây trong tình hình gạo và lúa mì tăng giá vùn vụt.
Khoai tây đã trở thành loại lương thực quan trọng thứ ba sau lúa mì và gạo. Mỗi năm, toàn thế

Trước tình hình an ninh lương thực trên thế giới như hiện nay, chính phủ các nước đang đưa ra
những chính sách và giải pháp để phát triển sản xuất khoai tây và khơi dậy nhu cầu tiêu thụ
khoai tây.
Tại Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn định hướng mở rộng diện tích trồng
khoai tây tại các địa phương. Việt Nam dự kiến sẽ tăng diện tích trồng khoai tây từ 35.000 ha
như hiện nay lên 50.000 ha vào năm 2010. Đồng thời, Việt Nam sẽ áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật để tạo được lượng khoai tây giống nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu giống cho bà con
nông dân, dần dần thay thế khoai tây thương phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc.
8
Trung tâm khoai tây quốc tế CIP và FAO cũng cho biết, để mở rộng những lợi ích từ việc sản
xuất khoai tây phụ thuộc vào những tiến bộ trong chất lượng cây trồng, các hệ thống nông
nghiệp để đảm bảo bền vững hơn trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên, và các giống khoai
tây cần phải tăng cường khả năng chịu hạn, nâng cao sức đề kháng với sâu bệnh và tính chống
chịu trong trường hợp đối mặt với điều kiện thời tiết biến động.
Các nhà khoa học Đức, nước trồng khoai tây lớn trên thế giới cũng đã giới thiệu các giống khoai
tây biến đổi gen có thể chống lại bệnh mốc sương-một loại bệnh nguy hại nhất ở cây khoai tây.
Căn bệnh này hiện đang chiếm khoảng 20% số vụ khoai tây trên toàn thế giới mất mùa mỗi năm.
Các nhà khoa học Đức cho biết, để giải quyết vấn đề sạch bệnh cho khoai tây, nếu dùng hạt
giống khoai tây sạch, không nhiễm virus thì nông dân có thể tăng sản lượng 30% và đủ tiêu
chuẩn để xuất khẩu. Điều này sẽ khiến cho nông dân các nước nói chung và nông dân tại Đức
nói riêng trồng nhiều khoai tây hơn. Hơn nữa, lúc này các công ty có thể xuất khẩu khoai tây đặc
sản ra nước ngoài thay vì chỉ xuất khẩu các sản phẩm đã được chế biến sẵn như khoai tây chiên.
9
SỐ LIỆU THỊ TRƯỜNG
Bảng 1: Giá bán lẻ một số mặt hàng khoai tây chế biến tại siêu thị Goldmart, Thành phố
Hồ Chí Minh (ĐVT: Vnd)
Khoai tây cập
đông
(gói 400gr)
Khoai tây

Ghi chú: 1 thùng = 30 gói
Bảng 3: Giá khoai tây tại một số thị trường các tỉnh Miền Bắc, Vnd/kg
Hà Nội Lào Cai
3/4/2008 6.500 5.500
10/4/2008 6.500 5.500
16/4/2008 7.000 5.800
23/4/2008 7.000 4.500
26/4/2008 6.500 6.500
Nguồn: Trung tâm Thông tin PTNNNT, www.agro.gov.vn
Bảng 4: Giá khoai tây tại một số thị trường các tỉnh Miền Nam, Vnd/kg
10
Thị trường Thành phố Hồ Chí Minh Thị trường Lâm Đồng
1/4/2008 17.000 6.500
2/4/2008 15.000 6.500
3/4/2008 17.000 6.500
4/4/2008 17.000 6.500
7/4/2008 17.000 6.500
8/4/2008 17.000 6.500
9/4/2008 16.000 6.500
10/4/2008 17.000 6.500
11/4/2008 17.000 6.000
16/04/2008 17.000 6.500
17/04/2008 17.000 6.000
18/04/2008 17.000 6.000
21/04/2008 17.000 7.500
22/04/2008 17.000 6.000
23/04/2008 17.000 6.000
28/04/2008 16.000 7.000
29/04/2008 17.000 7.000
Nguồn: Trung tâm Thông tin PTNNNT, www.agro.gov.vn

Mặt hàng Đơn vị tính Tháng 4/2007 Tháng 3/2008 Tháng 4/2008
Khoai tây USD/cwt 8.71 8.37 8.75
USD/tấn
(Quy đổi)
192.27 184.76 193.15
Nguồn: />Ghi chú: 1 cwt = 45,3 kg
12


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status