Tài liệu Luận văn: Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt NamThực trạng và giải pháp - Pdf 10


1

Luận văn
Hoạt động đầu tư trực tiếp
của các TNCs tại Việt Nam-
Thực trạng và giải pháp

2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

FDI :Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
TNCs : Công ty xuyên quốc gia
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
VĐT : Vốn đầu tư
VPĐ : Vốn pháp định
ĐTTH : Đầu tư thực hiện
TVĐT : Tổng vốn đầu tư
FVPĐ : Vốn pháp định do bên nước ngoài góp
FĐTTH : Vốn đầu tư thực hiện do bên nước ngoài góp
SDA : Số dự án 3



vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước.
Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn
nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như
sau:
- Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền
kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế)
- Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia (1995).
- Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà
xuất bản khoa học xã hội (1996)
- Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia (1996).
Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên
quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về
các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty
này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh
giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút
được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam.
Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện
kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại
Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu
tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng
cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp
của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở
những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công
bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm và
góp ý thêm.



6

- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh
tuỳ thuộc tỷ lệ góp vốn.
- Thông qua FDI nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư
khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả
vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu
tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
2. Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư
2.1 Những tác động tích cực
*- Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn vốn quan trọng
cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Điều này dẫn đến việc tác
động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ta hãy xem xét chỉ số ICOR- là lượng vốn đầu tư cần thiết để làm gia tăng
một đơn vị GDP.
ICOR=Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP, nên Mức tăng GDP= Vốn đầu tư/
ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư. Điều này có nghĩa là nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần không nhỏ trong
việc bổ xung vào tổng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
*- Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, các công ty chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đã chuyển giao công
nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang các nước nhận đầu tư. Chính nhờ sự
chuyển giao này mà nước chủ nhà nhận được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều

Thông thường nguồn FDI vào các nước đang và kém phát triển chủ yếu là
để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính vì các

8

nước đang và kém phát triển chưa có một nền khoa học công nghệ đủ tiên tiến để
khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, là lý do để các nước phát
triển thực hiện FDI để khai thác tài nguyên. Mục đích thực hiện FDI là tối đa hoá
lợi nhuận cho chủ đầu tư, nên các nhà đầu tư có thể không ngần ngại khai thác
tối đa những gì có lợi cho mình, dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước, vì thế ngay từ khi có kế hoạch
thu hút một dự án FDI nào đó, mỗi nước nhận đầu tư phải có một kế hoạch cụ
thể về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
- Tăng tính bất ổn định của thị trường tài chính quốc gia, tăng nguy cơ lạm phát
và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
- Giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế.
Khi chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư theo hình thức FDI tức là họ
muốn tự quản lý và điều hành hoạt động đầu tư theo ý của mình. Ngay cả những
công cụ vĩ mô của Nhà nước cũng chỉ quản lý được họ ở một mức độ nhất định
(như thẩm định ngành nghề để cấp phép đầu tư, quản lý hoạt động của dự án
thông qua công cụ thuế quan ), còn nhiều vấn đề trong hoạt động của dự án thì
không thể kiểm soát được, chính vì thế nó làm giảm khả năng kiểm soát nền kinh
tế là điều tất yếu khi nước nhận đầu tư không có đủ trình độ quản lý một cách
hiệu quả.
- Tăng sự phụ thuộc vào tình hình kinh tế chính trị bên ngoài. Vì đây là nguồn
vốn của nước ngoài, nên mỗi sự biến động của nước đi đầu tư cũng làm ảnh
hưởng đến nước nhận đầu tư cũng là điều dễ hiểu.
- Nếu nước nhận đầu tư không có trình độ đánh giá công nghệ thì dễ có nguy cơ
bị chuyển giao những công nghệ lạc hậu, trở thành bãi thải của những nước phát
triển

kết quả đâu tư này đòi hỏi phải được kiểm soát chặt chễ. Tuy nhiên áp dụng hình
thức đầu tư này đòi hởi phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản
lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt được hiệu quả
mong muốn.
3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quả lý và tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo
pháp luật nước chủ nhà.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài
ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà. Tuy nhiên sau một thời gian
hoạt động , hình thức này ngày càng được các nhà đầu tư yêu thích vì được tự
mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra.
Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là: Hợp
đồng xây dựng kinh doanh chuyển gia (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao

11

kinh doanh(BTO), Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu
tư áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
4. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển
Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và ngày
một tăng nhưng khả năng thanh toán cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó
quan hệ cung cầu về vốn trên thế giới trở nên căng thẳng. Khả năng thu hút vốn
đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ta xem xét các vấn đề sau
đây
4.1. Những xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
 Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của
các nước công nghiệp phát triển

điều kiện ưu đãi đầu tư…) thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều FDI hơn.
Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư bao gồm
- Sự ổn định về chính trị;
- Môi trường chính sách, pháp luật của nước nhận đầu tư như các chính sách về
sở hữu vốn, về lĩnh vực ngành nghề hoạt động. Theo các nhà phân tích thì một
quốc gia với một chính sách không có giới hạn trên và giới hạn dưới của tỷ lệ
vốn sở hữu thì được đánh giá là thu hút đầu tư nước ngoài thuận lợi nhất.
- Các chính sách về thuế và định mức thuế
- Các quy định về lệ phí và giá cả
- Các chính sách về quản lý ngoại hối: nếu nước nhận đầu tư có các chính sách
thông thoáng về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thì thu hút được lượng FDI
nhiều hơn
- Các chính sách liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài: Thể hiện ở mức độ
can thiệp của nước chủ nhà đến sự hoạt động của FDI, phải đảm bảo không có sự
chồng chéo, gây phiền hà cho chủ đầu tư
- Các chính sách và quy định khác: như chính sách liên quan đến vấn đề bảo về
môi trường, đến chuyển giao công nghệ, đến sử dụng lao động, thủ tục hải quan,
xuất nhập cảnh

13

Ở các nước đang phát triển, với những chính sách hợp lý về các vấn đề sở
hữu vốn, về thuế, về xuất nhập cảnh nên việc thu hút FDI ngày càng thuận lợi
hơn.
Mặt khác, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng thuế quan, hạn
ngạch và các hình thức phi thuế quan khác để kiểm soát việc nhập khẩu các hàng
hoá và dịch vụ, thậm chí đối với một số loại hàng hóa nào đó còn bị cấm nhập
khẩu. Thông thường, chính phủ của các quốc gia kiểm soát thương mại quốc tế
nhằm mục đích tăng thu ngân sách, bảo hộ các ngành trong nước và thực hiện
các mục tiêu chính sách kinh tế của mình. Trong điều kiện đó, các công ty thay

phạm vi toàn cầu là loại thị trường không có cạnh tranh. Kết quả tạo ra sự chênh
lệch lớn về mức lương giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau.
Vì công nhân không thể tự do di chuyển do các qui định về nhập cư nên
công ty buộc phải tìm đến người lao động địa phương. Mặt khác, trong nhiều
trường hợp việc làm này sẽ giúp đem laị lợi nhuận cho nhà đầu tư qua việc sử
dụng nguồn nhân lực với mức lương rẻ. Đây là một trong những lý do chính để
giải thích việc FDI và các nước đang phát triển như Mehico, Trung Quốc, Ấn
Độ, Thái Lan, Malaysia…nơi có mức lương thấp nếu so sánh với năng suất lao
động.
 Bảo vệ tài sản vô hình
Là một việc làm sống còn của mọi công ty. Tài sản vô hình thực sự tạo nên
lợi thế tuyệt đối cho công ty. Nó không chỉ là một bí quyết nào đó trong sản xuất
mà còn gồm cả khả năng nghiên cứu và phát triển, công nghệ quảng cáo, chiếm
lĩnh thị trường và nhãn hiệu sản phẩm. Nhà sản xuất chỉ chịu chuyển giao hoặc
bán tài sản vô hình với một số điều kiện nhất định nào đó. Ngoài ra, cũng cần
phải lưu ý rằng, tài sản đó khó có thể được bảo toàn ở nước ngoài, đặc biệt ở
những nước có hệ thống pháp luật không hoàn hảo hoặc không có ý muốn tôn
trọng các hiệp định quốc tế về quyền sở hữu, bản quyền, phát minh sáng chế…

15

Do đó, để thực sự là chủ sở hữu tài sản vô hình, các nhà đầu tư quyết định đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.
 Liên kết theo chiều dọc
Nhìn chung các nhà sản xuất (bao gồm cả các TNCs) đều phải giải quyết vấn
đề cơ bản của quá trình sản xuất đó là: đảm bảo ổn định các yếu tố đầu vào và có
thị trường tiêu thụ sản phẩm thuận lợi.
Để đảm bảo ổn định các yếu tố đầu vào trong những ngành có liên kết với
nhau theo chiều dọc, các nhà sản xuất thường có khuynh hướng đầu tư vào các
ngành sản xuất hoặc khai thác kế tiếp phía trước (forward vertical FDI). Hình

II/ Khái luận chung về Công ty xuyên quốc gia ( TNCs)
1. Khái niệm và đặc điểm của TNCs
1.1. Khái niệm
Cho đến nay, trên thế giới người ta vẫn chưa có một định nghĩa đồng nhất
về công ty xuyên quốc gia. Có rất nhiều cách gọi được sử dụng tương tự như
nhau như: công ty quốc tế, công ty toàn cầu, công ty đa quốc gia, công ty siêu
quốc gia…Chúng được dựa trên những tiêu thức và cách tiếp cận khác nhau.
Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation – viết tắt là TNCs) là
các công ty có hoạt động xuyên quốc gia và hình thức hoạt động được ưa chuộng
nhất là việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty này.
Ba thập kỷ gần đây, các công ty xuyên quốc gia phát triển rất mạnh mẽ với
hàng chục nghìn công ty mẹ và hàng trăm chi nhánh, trở thành lực lượng chi
phối đời sống kinh tế toàn thế giới. Có thể khái quát sự hình thành của TNCs
như sau: Công ty A

Sản xuất trong nước
Xuất khẩu trực tiếp (Để thăm dò thị
tr
ư

ng)17

Mở chi nhánh bán hàng
Chi nhánh sản xuất
( Công ty A’)

18

- Các công ty xuyên quốc gia có năng lực tổ chức lớn mạnh, chúng đủ sức kiểm
soát hoạt động của hàng chục, thậm chí hàng trăm chi nhánh phân tán ở nhiều
nước, xử lý được các công việc phức tạp có liên quan đến pháp luật và tài chính.
Các công ty xuyên quốc gia có điều kiện thuận lợi cho việc khai thông sự di
chuyển quốc tế về hàng hoá, tư bản, tri thức kỹ thuật và lao động có chuyên môn
cao. Thông qua các tổ chức, chi nhánh chúng có thể thực hiện từ xa việc kết hợp
các yếu tố sản xuất trên quy mô toàn cầu. Sự bố trí sản xuất toàn cầu vượt qua
các biên giới quốc gia, sự kết hợp giữa việc sử dụng tư liệu sản xuất, lực lượng
kỹ thuật tập trung về không gian với phân đoạn về thời gian là con đường quan
trọng giúp tư bản hiện đại tiết kiệm, hạ giá thành, tăng cạnh tranh và tăng lợi
nhuận.
- Công ty xuyên quốc gia có năng lực mạnh về nghiên cứu khoa học và phát triển
sản phẩm. Công tác nghiên cứu và phát triển khoa học của TNCs có kế hoạch
đồng bộ và có tổ chức chặt chẽ. Thông thường mỗi TNCs đề có đội ngũ cán bộ
khoa học lớn mạnh, tập trung khám phá những đề tài then chốt. Công ty mẹ chỉ
đạo và chi viện vốn, chi viện lao động cho các đề tài nghiên cứu phát triển của
các công ty con để tránh trùng lặp, rời rạc và kém hiệu qủa.
- Công ty xuyên quốc gia có lợi thế trong cạnh tranh nhằm tiêu thụ các hàng hoá
và dịch vụ của mình. Công ty xuyên quốc gia có khả năng thích ứng đối với
những thay đổi của nhu cầu. Thông qua các tổ chức chi nhánh đặt tại các nơi trên
thế giới, nó có khả năng nắm bắt những thay đổi của nhu cầu và đáp ứng kịp thời
những thay đổi đó.
- Công ty xuyên quốc gia có những thuận lợi trong việc tự do điều phối vốn trên
toàn thế giới. Thông qua mạng lưới thông tin dày đặc giữa các công ty con,

 Tái xuất các sản phẩm ra khỏi các nước hoặc nhập khẩu trở lại chính quốc
Do nhiều lý do như bảo hộ mậu dịch, giảm chi phí, tăng cường các mối quan hệ
truyền thống mà nhiều TNCs đã tái xuất khẩu sản phẩm từ chi nhánh ra khỏi
nước chủ nhà. Thậm chí, nếu chi phí sản xuất có sự chênh lệch lớn thì các TNCs
lại nhập khẩu bán thành phẩm hoặc thành phẩm từ các công ty con về công ty

20

mẹ. Sự trao đổi có tính nội bộ thường được hưởng mức thuế nhập, về cơ bản đây
là một hình thức làm tăng lợi nhuận cho các công ty.
2.2 Tác động của các TNCs tới nền kinh tế thế giới
Cuối những năm 90, có hơn 53.700 TNCs với 449.000 chi nhánh trên toàn
thế giới, tổng sản lượng xuất ra bằng 50% sản lượng của toàn bộ thế giới tư bản,
kiểm soát hơn 50% mậu dịch thế giới, chiếm hơn90% FDI và khoảng 80% bản
quyền kỹ thuật công nghệ của thế giới tư bản chủ nghĩa, lực lượng TNCs có một
sức mạnh vô cùng to lớn, chúng tác động và gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp tới hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị của các nước. Sau
đây chúng ta có thể kể ra những tác động của TNCs đối với nền kinh tế thế giới.
 TNCs thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất và quốc tế hoá tư bản
Với khả năng huy động vốn và tài chính lớn mạnh cùng hệ thống mạng lưới chi
nhánh rộng khắp trên thế giới, các TNCs đã thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản
xuất và tư bản thông qua việc di chuyển vốn và phân công lao động trong nội bộ
công ty, điều này ảnh hưởng đến quá trình quốc tế hoá sản xuất và quốc tế hoá tư
bản.
 Thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài
Với lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và mạng lưới thị trường rộng
khắp, hoạt động đầu tư của các TNCs tác động mạnh tới dòng chảy FDI, làm
thay đổi xu hướng đầu tư giữa các nước và tác động trực tiếp tới lượng vốn đầu
tư vào các nước
 Thúc đẩy quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ

 Tác động tới vấn đề điều tiết nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mỗi
quốc gia
Hầu hết các chi nhánh đều phải hoạt động theo kế hoạch của công ty mẹ đề
ra, thông qua kế hoạch này ở mỗi nước nhận đầu tư lại có sự điều tiết của nước
chủ nhà, từ đó TNCs tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa nước chủ nhà và
nước chínhquốc do sự phụ thuộc giữa công ty mẹ và công ty con. Khi thực hiện
FDI ở mỗi nước thì các TNCs lại có một chiến lược riêng, tuy nhiên hầu hết các

22

công ty thường đầu tư hoạt động ở các lĩnh vực có lợi nhuận cao như lĩnh vực
dịch vụ và công nghiệp Từ đó các công ty này góp phần vào việc điều chỉnh cơ
cấu kinh tế ở các quốc gia đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
 Tác động thúc đẩy phát triển các nguồn lực
Để phục vụ mục tiêu lợi nhuận, TNCs thường quan tâm đến trình độ lao
động và ngay cả khi tuyển dụng lao động thì TNCs cũng phải chọn những đối tác
có trình độ thoả mãn. Thông thường TNCs thường tổ chức đào tạo nâng cao trình
độ cho lực lượng lao động của mình ở nước nhận đầu tư để phù hợp với công
nghệ áp dụng nên trình độ lao động hoạt động trongkhu vực có vốn FDI ngày
càng được tăng cường.
Kết luận: Nói chung tác động của các TNCs luôn có tính hai mặt, vì vậy các
nước nhận đầu tư phải tích cực tìm hiểu về để hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực, khuyến khích những mặt tích cực…Để làm được điều này, các nước xem
xét tác động của TNCs phải đặt chúng trong điều kiện và hoàn cảnh phát triển
của nước mình để rồi có những đối sách hợp lý.

23

3. Quá trình hình thành và phát triển của TNCs trên thế giới
Ngày nay các công ty xuyên quốc gia đang chi phối việc cung ứng hàng

đó, quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc cũng tạo điều kiện
cho các TNCs ra đời để bao quát tìm kiếm lợi nhuận và trợ giúp nội bộ.
- Thứ tư: Do sự phát triển của khoa học công nghệ, các doanh nghiệp ngày càng
sản xuất ra nhiều hàng hoá, từ đó nhu cầu mở rộng thị trường ngày càng trở nên
cấp thiết để tồn tại và phát triển TNCs phải vươn ra thị trường nước ngoài bằng
nhiều hình thức khác nhau như lập văn phòng đại diện, lập chi nhánh.
Cùng với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ thì máy móc nhanh
chóng trở nên lỗi thời, giá trị hao mòn vô hình của tư bản cố định diễn ra nhanh
chóng đòi hỏi các công ty phải mở các chi nhánh ở nước kém phát triển hơn để
chuyển giao công nghệ kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và làm giảm chi phí
do hao mòn vô hình nhanh gây nên.
Ngay bản thân việc nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn,
đây chính là nhân tố làm cho dịch vụ nghiên cứu kỹ thuật phát triển, tạo điều
kiện cho các công ty đầu đàn bành trướng. Sự phát triển khoa học công nghệ vừa
là động lực vừa là điều kiện đối với việc toàn cầu hoá hoạt động của các TNCs.
- Thứ năm: Do thừa vốn và để giảm thiểu rủi ro cũng như tối đa hoá lợi nhuận
Hiện nay, một số công ty hoạt động trong phạm vi một quốc gia sẽ không thể
phát triển được do có quá nhiều công ty cùng lĩnh vực cạnh tranh với nhau, do
thị trường không đủ sức chứa làm cho công ty vốn của công ty đã tích tụ được
nhưng không đưa vào sử dụng hết, nên đưa tư bản ra nước ngoài đầu tư là một
giải pháp, đồng thời cũng là một cách để phân tán rủi ro.
Sau đây ta xem xét quá trình phát triển của TNCs trên thế giới
Trước đây chủ yếu TNCs phát triển từ các công ty độc quyền lớn, tuy nhiên
cùng với quá trình quốc tế hoá sản xuất, các xí nghiệp nhỏ cũng đi vào kinh
doanh quốc tế, khiến số lượng và thực lực của các công ty xuyên quốc gia không
ngừng tăng lên. Theo điều tra của trung tâm nghiên cứu TNCs thuộc Liên Hợp
Quốc, số lượng các công ty xuyên quốc gia không ngừng tăng lên từ thập kỷ 80.

25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status