Tài liệu Tiểu luận: Tài chính tiền tệ doc - Pdf 10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
1.1.1. Nguồn gốc ra đời và khái niệm tiền tệ
1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao
động thấp, con người thường chỉ có một số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm.
Khi đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm
dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi sản phẩm
mang tính ngẫu nhiên và được thực hiện bằng phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp H – H’.Đây
là bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp.
Tuy nhiên, quá trình trao đổi hàng hoá ở giai đoạn này còn rất sơ khai và chủ yếu được thực
hiện dựa trên nguyên tắc sự trùng khớp ngẫu nhiên về nhu cầu sử dụng.Tức là đòi hỏi các cá nhân
tham gia vào quá trình trao đổi hàng hóa phải trực tiếp gặp nhau và đặc biệt là phải có sự phù hợp
về nhu cầu trao đổi với nhau.Ví dụ như một người cần vải vóc và có thóc phải gặp được người cần
thóc và có vải thì sự trao đổi hàng hoá mới có thể diễn ra.Như vậy, việc thực hiện giá trị của một
hàng hoá này phụ thuộc vào giá trị sử dụng của một hàng hoá khác. Ngoài ra, trong hình thức trao
đổi này người ta còn phải thoả thuận về tỷ lệ giá trị của hàng hoá, về số lượng hoá trao đổi, Cùng
với việc cải tiến công cụ lao động và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu sắc hơn,
nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, do đó, hình thái biểu hiện giá trị của các hàng hóa không
còn mang tính ngẫu nhiên nữa. Lúc này, hàng hoá trên thị trường đã phong phú đa dạng hơn, đòi
hỏi phạm vi trao đổi phải được mở rộng hơn.
Sự phát triển của quá trình trao đổi hàng hóa dẫn đến vật trung gian trong trao đổi hàng hoá
đã ra đời.Quá trình trao đổi được thể hiện dưới phương trình H-vật trung gian-H’. Ban đầu vật
trung gian hay vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng
hoá thông thường khác. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản,
vận chuyển và mang tính đặc thù địa phương. Về sau, với sự phát triển của trao đổi, vật ngang giá
chung chỉ giới hạn ở một số hàng hoá quý hiếm và có ý nghĩa tượng trưng như da thú, vỏ sò, vòng
đá, Khi lực lượng sản xuất phát triển, phạm vi không gian trao đổi hàng hóa được mở rộng, đồng
thời, khi trao đổi hàng hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của con người thì tình trạng có nhiều

Tiền tệ ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hoá. Quá trình này chứng minh rằng “ cùng với sự chuyển hoá chung của sản
phẩm lao động thành hàng hoá, thì hàng hoá cũng chuyển hoá thành tiền tệ”
2
. Tiền tệ là một hàng
hoá đặc biệt. Do đó, cũng như các hàng hoá khác, tiền tệ có hai thuộc tính : giá trị và giá trị sử
dụng. Để sáng tạo ra tiền tệ, cũng có lượng hao phí lao động sống của những người thợ khai thác
vàng, thợ đúc tiền kết tinh trong đồng tiền vàng, và với vai trò là trung gian trong trao đổi hàng hóa,
có thể trao đổi với tất cả các hàng hóa khác thì lúc này tiền tệ có khả năng giúp con người thỏa mãn
mọi nhu cầu sử dụng . Như vậy, tiền tệ có giá trị sử dụng đặc biệt : giá trị sử dụng xã hội. K.Mark
nhận xét: “ giá trị sử dụng của hàng hoá bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng
của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”.
3
Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã chứng minh rằng nền kinh tế hàng hoá là một
thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển theo một quy luật khách quan. Bước vào thế kỷ 20,
cùng với sự phong phú của đời sống kinh tế, khi đề cập đến tiền tệ người ta không nhìn nó một
cách hạn hẹp và giản đơn rằng tiền tệ chỉ là tiền kim loại hay tiền giấy mà đã xem xét trên giác độ
rộng hơn kể cả các loại séc, số dư tiền gửi tại ngân hàng, nếu chúng có thể chuyển đổi dễ dàng
thành tiền mặt thì cũng có thể xem là tiền theo nghĩa rộng. Samuelson đã viết: “ Bản chất của tiền
tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không
phải hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà vì những thứ mà dùng nó sẽ mua được”
4
“bản chất
của tiền tệ là để dùng làm phương tiện trao đổi”
5
.
Ngày nay, ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển,
tiền tệ không đơn thuần là phương tiện trao đổi mà người ta còn sử dụng tiền để đầu tư, để cho vay
và xem như một dạng của cải, một đối tượng để sở hữu.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền tệ là bất cứ thứ gì được chấp nhận

P.A.Samuelson – Kinh tế học I – Viện quan hệ quốc tế 1989 – Trg 332
5
P.A.Samuelson – Kinh tế học I – Viện quan hệ quốc tế 1989 – Trg 332
Mặt khác, theo đà phát triển của nền sản xuất, sự hình thành một thị trường rộng lớn đã đòi
hỏi vật ngang giá chung mang tính phổ biến và đồng nhất hơn, do đó dẫn đến việc sử dụng tiền tệ
kim loại.
- Hoá tệ kim loại
Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng
rãi trong suốt thời kỳ các triều đại phong kiến. Kim loại được chọn làm bản vị cho chế độ tiền tệ
các nước cũng được thay thế từ những kim loại kém giá (sắt, đồng, kẽm ) đến những kim loại có
giá trị cao (bạc, vàng). Để thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng, một số thương nhân đã tự in đúc
tiền và sau này nhà nước chính thức ban hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống
nhất kỹ thuật in – đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền, đồng thời chứng thực
quyền lực nhà nước.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển mạnh mẽ đòi
hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn tại như một hình thức được nhiều người chấp
nhận và phải có độ bền để bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim
loại kém giá, dễ rỉ sét để trở thành tiền tệ phổ biến trong khoảng thế kỷ 18 và 19. Trong giai đoạn
này, có những nước đã thực hiện chế độ song bản vị, nghĩa là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ
trong lưu thông. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra nhiều mỏ bạc, năng
suất khai thác bạc tăng lên, kim loại bạc được tạo ra nhiều hơn nên giá trị của nó đã bị suy giảm so
với vàng. Khi đó, vai trò trung gian trong trao đổi hàng hóa của bạc đã bị sụt giảm rất nhiều so với
vàng và kim loại vàng đã trở thành thước đo giá trị của bạc. Lúc này, hầu hết các nước phương Tây
đã áp dụng chế độ bản vị vàng. Mối quan hệ giao thương bị phụ thuộc nhiều vào châu Âu nên các
nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Dương, sau đó cũng lần lượt
chuyển sang chế độ bản vị vàng.
Hoá tệ kim loại có ưu điểm là tính chất đồng nhất cao về chất lượng, giá trị ít biến đổi, dễ
bảo quản, vận chuyển, chia nhỏ hay gộp lại và đặc biệt là khi vàng được sử dụng làm tiền tệ thì
các ưu điểm trên càng nổi trội hơn. Tuy nhiên vẫn có nhược điểm là nguồn khai thác có hạn. Khi
quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao

thương hội rồi nhận giấy chứng nhận của hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương
gia có thể mua hàng ở các thị trấn khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại giấy chứng
nhận trên triều đình nhà Tống còn phát hành tiền giấy và được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy. Nhân dân
ai cũng phải nộp tiền kim loại (vàng nén hoặc bạc nén) vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền kim loại
đổi được 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ,
dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền kim loại và tiền giấy
(bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước Châu
Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gởi
vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem những tờ
nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người khác các giấy nhỏ này
cũng được chấp nhận. Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành
tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với
nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều nhà ngân hàng lạm dụng
gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc
tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương
quyền các nước Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều
kiện nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành
+ Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: ban đầu là 100% sau còn 40%
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vay không tính lãi khi cần thiết.
Tiền giấy bất khả hoán
Tiền giấy bất khả hoán (tiền phù hiệu) là tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả bằng pháp
luật, bắt buộc lưu hành và không thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo tiêu chuẩn Nhà nước quy
định.
Sự xuất hiện của tiền giấy bất khả hoán trong lịch sử đã được đánh dấu bởi hai hai mốc thời
gian quan trọng là Đại chiến thế giới lần thứ nhất và khủng hoảng kinh tế thế giới 1929. Thế chiến
thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nước Anh
từ năm 1931 đã cưỡng chế lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước Pháp năm 1936. Năm 1929,

người sử dụng phải chịu phí giao dịch, mức phí này do các tổ chức tín dụng ấn định, thường là ở
một mức tối thiểu và một tỉ lệ % so với tổng số tiền giao dịch. Chính vì thế, khi giao dịch bút tệ với
quy mô nhỏ lẻ thì người sử dụng có thể phải gánh chịu cho phí giao dịch rcao. Ngoài ra, muốn sử
dụng được loại tiền này, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải được đầu tư đầy đủ về mặt cơ sở vật chất
kỹ thuật và phải tuân thủ những quy trình thủ tục nhất định.
- Tiền điện tử (electronic money)
Tiền điện tử là hình thức phát triển cao của tiền ghi sổ (bút tệ) được sử dụng qua hệ thống
thanh toán tự động hay còn gọi là hộp ATM (Automated teller machine). Đây là một hệ thống máy
tính điện tử nối mạng với hệ thống ngân hàng trung gian và kho chứa tiền mặt cũng như hệ thống
thanh toán phục vụ cho việc thanh toán, chi trả của các chủ thể trong xã hội. Tiền điện tử tồn tại và
được sử dụng thông qua các công cụ là các loại thẻ thanh toán như: thẻ tín dụng ( Credit cards), thẻ
ghi nợ (Debit cards),…
Tóm lại: Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn mang dấu ấn của nền văn minh nhân
loại. Điều này đã được minh chứng qua quá trình phát triển các hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ
khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền điện tử ngày nay. Ngoài ra, tiến trình phát triển
này còn biểu hiện cho sự chuyển biến sâu sắc về quan niệm tiền tệ của những người sở hữu nó, đó
là từ quan niệm tiền tệ không chỉ là phương tiện trao đổi mà còn phải được thừa nhận là biểu trưng
cho của cải xã hội (hoá tệ, kim tệ) cho đến phi vật chất hoá tiền tệ (bút tệ, tiền giấy, tiền điện tử) đã
ngày càng được xem là nét đặc trưng cơ bản của quan niệm tiền tệ hiện tại.
1.2. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN TỆ
1.2.1. Chức năng của tiền tệ
Nếu trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế hàng hoá người ta chỉ sử dụng tiền tệ như một
công cụ trao đổi thì cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá tiền tệ đã thể hiện
ngày càng đa dạng hơn các chức năng vốn có của mình.
Trong học thuyết của K.Marx, ông cho rằng vàng trong vai trò là vật ngang giá chung có thể
thực hiện 5 chức năng:
• Chức năng thước đo giá trị
• Chức năng phương tiện lưu thông
• Chức năng phương tiện thanh toán
• Chức năng phương tiện cất trữ giá trị

thực chất, bởi vì việc đo lường giá trị hàng hoá chỉ thực hiện trong tư duy, trong ý niệm. Trong lịch
sử lưu thông tiền tệ, tiền vàng là thước đo chuẩn mực nhất thông qua sự so sánh trực tiếp giữa giá
trị hàng hoá và vàng. Như vậy, “phép đo” giá trị vẫn được thực hiện mà không cần sự hiện diện của
thước đo. Đó là cơ sở đẫn đến hiện tượng “phi vật chất” của chức năng thước đo giá trị. Về điểm
này K.Mark viết: “Giá cả , hay hình thái tiền của các hàng hoá, cũng như hình thái giá trị của chúng
nói chung, là một cái gì khác với hình tháivật chất có thể cảm nhận bằng các giác quan. Do đó chỉ
là một hình thái trên ý niệm, chỉ tồn tại trong quan niệm mà thôi”
6
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả
hàng hoá, cho thấy mối tương quan giữa giá trị tiền tệ, giữa giá trị hàng hoá và giá cả hàng hoá.
Thực chất giá cả hàng hoá là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị của tiền tệ.Chính vì thế mà
giá cả của hàng hoá tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị tiền tệ. Mặt khác
cho thấy tác dụng to lớn của tiền tệ trong chức năng thước đo giá trị đối với nền sản xuất hàng hoá,
biểu hiện việc thực hiện quy luật giá trị - quy luật phổ biến của nền sản xuất hàng hoá. Việc chuyển
giá trị hàng hoá thành giá cả là điều kiện vô cùng quan trọng và tiên quyết để đưa hàng hoá vào quá
trình lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường vận dụng chức năng này của tiền tệ đã giúp cho các doanh
nghiệp có thể hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và qua đó đánh giá hiệu
quả kinh doanh để chọn hướng đầu tư thích hợp. Hơn nữa, ở tầm vĩ mô trong hệ thống kế toán quốc
gia, đồng tiền với chức năng thước đo giá trị đã được vận dụng để tính toán tổng mức GDP, GNP
trong từng thời kỳ. Từ đó, ngoài việc phục vụ cho quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân, tiền
còn giúp chúng ta đánh giá hiệu quả nền kinh tế để có biện pháp tận dụng những nguồn tài nguyền
quốc gia phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Mỗi quốc gia có thước đo giá trị riêng. Cơ sở để xác lập thước đo giá trị ở mỗi quốc gia là
năng suất lao động và trình độ phát triển của nền kinh tế ở quốc gia đó.
* Chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán này khi nó xuất hiện trong
lưu thông với tư cách làm môi giới trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá và là phương tiện để
thực hiện quan hệ thanh toán các khoản nợ và các nghĩa vu tài chính.
Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình trao đổi hàng hoá đã cho phép thay thế phương thức

nền kinh tế xã hội:
- Thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế qua việc giảm bớt thời gian và chi phí phải gánh chịu khi
trao đổi hàng hóa dịch vụ và thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa.
- Tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội.
- Tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng và các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
phát triển
* Chức năng phương tiện cất trữ/ tích lũy giá trị
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện cất trữ giá trị khi nó tạm thời rút khỏi lưu thông
tồn tại dưới dạng giá trị dự trữ để đáp ứng cho nhu cầu mua sắm chi trả trong tương lai.
Dự trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện chuyển tải giá trị
được xã hội thừa nhận, với mục đích để chuyển hoá thành hàng hoá hoặc dịch vụ trong tương lai.Sở
dĩ tiền thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ giá trị bởi vì nó là hiện thân của của cải xã hội
và nó có thể trực tiếp chuyển hoá thành hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền
tệ phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Tiền phải có giá trị nội tại (tiền đủ giá) hoặc phải có sức mua ổn định, lâu dài.
- Giá trị dữ trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực và được xã hội thừa
nhận. Hay nói cách khác, phải thể hiện bằng tiền mặt hoặc các phương tiện chuyển tải giá trị
khác.
Khi thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền ở trạng thái không vận động, không phục
vụ cho quá trình lưu thông hàng hoá, như vậy đối lập với tính chất của tiền trong chức năng phương
tiện lưu thông. Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hay bản vị vàng, việc thực hiện chức năng cất
trữ của tiền đã có tác dụng điều hoà khối lượng tiền trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu của lưu
thông hàng hoá.
Chức năng phương tiện cất trữ của tiền đã cho phép người sở hữu nó dự trữ một sức mua
cho các giao dịch trong tương lai. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp
muốn đầu tư mở rộng sản xuất, khi các tầng lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những vật phẩm có giá
trị cao để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, người ta thường cất trữ dưới dạng tiền giấy hoặc số dư tiền
gửi trên tài khoản ký thác tại ngân hàng.
Ngày nay, khi nền kinh tế phải đối diện với tình trạng lạm phát người ta tích luỹ tiền vàng
như một hình thức bảo tồn tài sản của mình. Bên cạnh đó, các tài sản có xu hướng gia tăng giá trị

phát triển, làm cho xu thế hòa nhập trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng,
hợp tác khoa học kỹ thuật,… giữa các nước ngày càng sâu rộng.
1.1.2.3 Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu chúng
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu như mọi quan hệ kinh tế xã hội đều bị tiền tệ hoá,
mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan … đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện
đó, tiền tệ trở thành công cụ để xử lí mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội (trong và
ngoài nước), đồng thời tất cả các hành vi kinh tế trong nền kinh tế hiện nay đều hướng đến 1 mục
đích duy nhất , đó chính là lợi nhuận (là tiền). Bên cạnh đó, thực tế đã chứng minh, tiền tệ là công
cụ hữu hiệu giúp các chủ thể trong nền kinh tế xã hội đạt được các mục đích khác nhau. Từ các cá
nhân, đến các tổ chức, để tồn tại, hoạt động và phát triển, đều cần có nguồn lực vật chất thể hiện
dưới nhiều hình thái khác nhau, và tất cả các mục đích đó đều có thể được thỏa mãn thông qua việc
dùng tiền để mua sắm. Thậm chí, ngay cả Chính phủ, để thực hiện được các chức năng và nhiệm vụ
của mình, để khuếch trương quyền lực chính trị của mình và tạo uy tín trong long dân chúng, Chính
phủ cũng luôn cần đến tiền như là một phương tiện hữu ích nhất, và thỏa mãn đã dạng các mục đích
nhất.
1.3. CÁC CHẾ ĐỘ LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1.3.1. Khái niệm và các yếu tố cơ bản cấu thành chế độ lưu thông tiền tệ:
Có thể hiểu chế độ lưu thông tiền tệ một cách khái quát như sau:H
Chế độ lưu thông tiền tệ là tập hợp có hệ thống các đạo luật, quy định và những văn bản
của quốc gia hay tổ chức quốc tế về quản lý và lưu thông tiền trong phạm vi không gian và thời
gian nhất định.
Tiền là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, còn chế độ lưu thông là sản phẩm của
pháp quyền.Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không chỉ phụ thuộc vào mức độ phát triển
kinh tế của mỗi quố gia mà còn bị cho phối bởi trình độ tổ chức quản lý của Nhà nước. Chế độ lưu
thông tiền của mỗi quốc gia sẽ được hoàn thiện dần cho phù hợp với sự phát triển kinh tế trong
nước và giao lưu quốc tế. Cho dù đồng tiền của một quốc gia hay của liên minh một số quốc gia và
cho dù đồng tiền xuất hiện dưới dạng tiền mặt hay bút tệ thì cũng được điều chỉnh bởi chế độ lưu
thông tiền tệ.
Khi xây dựng chế độ lưu thông tiền tệ, cần phải chú ý các yếu tố cấu thành cơ bản là bản vị
tiền, đơn vị tiền và các chế độ về đúc tiền và lưu thông tiền.

trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Việc đúc tiền do người đứng đầu Nhà nước độc quyền
thực hiện song vẫn có hiện tượng phân tán quyền đúc tiền do tính cát cứ địa phương do nhiều lãnh
chúa tự phát hành tiền. Điều này đã dẫn đến hiện tượng có nhiều đồng tiền cùng xuất hiện trong
một quốc gia.
* Lưu thông tiền đủ giá: Là chế độ lưu thông tiền bạc và vàng, xuất hiện khi nền kinh tế thị
trường phát triển. Gồm các thời kỳ:
- Chế độ bản vị bạc: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc được sử dụng làm thước đo
giá trị và phương tiện lưu thông. Nửa cuối thế kỷ XIX, ở các nước Nga, Ấn độ, Hà lan, Nhật bản,
… bạc đã được sử dụng phổ biến như là tiền trong lưu thông. Đến cuối thế kỷ này, hàng loạt mỏ
bạc được phát hiện ở Mexico đã làm cho giá trị của bạc giảm xuống đáng kể nên ở một số quốc gia,
bạc đã không còn thích hợp với vai trò là tiền tệ nữa.
- Chế độ song bản vị: Trong chế độ này, bạc và vàng đều được sử dụng làm thước đo giá trị
và phương tiện lưu thông. Trong lưu thông tiền tệ, hai thứ kim loại này có quyền lực ngang nhau và
đều được thanh toán không hạn chế theo giá trị của chúng. Thực chất, đây là chế độ lưu thông tiền
chuyển tiếp từ bản vị vàng sang bản vị bạc.
Do bạc khai thác được nhiều nên giá trị của nó ngày càng giảm, còn giá trị của vàng ngày
càng tăng do số lượng của nó không thay đổi hoặc thay đổi rất ít. Lúc này, vàng là thước đo giá trị
của bạc, còn bạc là thước đo giá trị của các hàng hoá khác, đây là chế độ song bản vị thả nổi. Để
đảm bảo quá trình lưu thông tiền tệ, Nhà nước phải qui định chế độ tỷ giá. Từ đó, có hiện tượng đổi
từ bạc sang vàng theo tỷ giá qui định dẫn đến hiện tượng đồng tiền xấu đuổi đồng tiền tốt ra khỏi
lưu thông, nói cách khác dân chúng có xu hướng mua vàng cất trữ vì nó có giá trị hơn bạc.
- Chế độ bản vị vàng: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng được sử dụng làm thước đo
giá trị và phương tiện lưu thông. Chế độ này có các đặc điểm sau:
+ Được tự do đúc tiền vàng: Nhà nước chỉ qui định hàm lượng, tiêu chuẩn, còn việc đúc từ
vàng thoi, vàng khối thành tiền hoặc ngược lại thì Nhà nước không quy định. Mọi người dân nếu có
vàng thoi, vàng khối đều có thể đúc thành tiền vàng phục vụ tieu dung và cất trữ.
+ Tự do lưu thông tiền vàng: Tiền vàng được sử dụng thanh toán không hạn chế. Tiền vàng
bị hao mòn trong lưu thông, tiền kim loại kém giá và giấy bạc ngân hàng đều có thể tự do được đổi
lấy tiền vàng mới theo giá trị danh nghĩa của chúng.
+ Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia: Trong quan hệ thanh toán liên quan đến

giấy là con số được ghi trên tờ giấy bạc hay còn gọi là mệnh giá của đồng tiền.
Khi nghiên cứu các vấn đề về tiền tệ, K. Mark đã đưa ra qui luật lưu thông tiền giấy. Nội dung
của qui luật là: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền
đó đặc trưng, mà lẽ ra phải lưu thông thực sự”.
Từ qui luật này có thể rút ra:
Giá trị đại diện thực tế
(= 1 đơn vị tiền giấy)
=
Số lượng vàng (bạc) cần thiết cho lưu thông
Số lượng tiền giấy thực tế trong lưu thông
Như vậy:
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vào lưu thông cân đối với số tiền đủ giá cần thiết cho lưu
thông trong một thời gian nhất định thì giá trị đại diện cho một đơn vị tiền giấy phù hợp với giá trị
danh nghĩa của nó.
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vượt quá lượng tiền đủ giá cần thiết cho lưu thông thì giá
trị đại diện thực tế của nó sẽ bị giảm sút, nói cách khác tiền giấy bị mất giá và sức mua của nó bị
giảm.
Qua đó ta thấy, nếu số lượng tiền cần thiết cho lưu thông do giá cả hàng hoá quyết định thì
trái lại giá trị của tiền giấy lại do số lượng của chính nó quyết định.
Chương 2
CUNG - CẦU TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
Điều tiết cung cầu tiền tệ và phòng chống lạm phát là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ nền
kinh tế nào. Chương học này giới thiệu các vấn đề cơ bản về cung cầu tiền tệ và lạm phát như là
các khái niệm, các lý thuyết, học thuyết về cung cầu tiền và nguyên nhân, tác động của lạm phát
cũng như các biện pháp phòng chống, kiểm soát lạm phát. Qua chương học này, người học có thể
hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa các khối tiền trong lưu thông, cũng như hiểu được sự tác
động của khối lương tiền cung ứng cho lưu thông, khối lượng tiền có mặt trong lưu thông và lạm
phát. Từ đó, các giải pháp kiềm chế lạm phát được xây dựng nhằm rút bớt lượng tiền thừa trong lưu
thông, cân đối với nhu cầu về tiên của nền kinh tế.
2.1. CUNG - CẦU TIỀN TỆ.

hàng, các tổ chức tín dụng.
Là một loại tiền có tính lỏng thấp hơn so với tiền pháp định vì phải thông qua một số thủ tục
thanh toán theo quy định khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, trong điều kiện những dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng trở nên tiện ích thì vấn đề thanh toán từ tiền gửi không kỳ hạn hay các tài
khoản thanh toán có thể phát hànhséc,… sẽ góp phần giảm đáng kể những chi phí không cần thiết
trong thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài ra, hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại còn thực hiện
trả lãi cho các khoản tiền gửi thanh toán nên so với tiền mặt, nó còn đáp ứng phần nào mục tiêu
sinh lời cho người sở hữu tiền tệ. Điều đó giải thích tại sao ở những nước phát triển, bộ phận tiền
này chiếm đến 75% tổng khối tiền dùng cho giao dịch.
- Các loại tiền tài sản
Xét về thực chất, tiền tài sản không phải là tiền giao dịch vì người ta không thể sử dụng nó
như là một phương tiện trao đổi không hạn chế về thời gian như tiền mặt cũng như không thể đáp
ứng nhu cầu giao dịch ngay lập tức như các loại tiền có tính lỏng cao nhưng chúng được xem như
là tiền vì người ta có thể dễ dàng chuyển đổi chúng ra thành tiền mặt thông qua hoạt động của thị
trường tài chính. Mặt khác, với tên gọi “tiền tài sản” cho thấy đây là loại tài sản được người sở hữu
nắm giữ như là một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có khả năng hoán chuyển linh hoạt
sang tiền mặt trong thời gian ngắn. Từ đó, việc thừa nhận loại tiền tài sản trong kết cấu khối tiền
của NHTW các nước phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển kinh tế thị trường của nước đó mà
đặc biệt là thị trường tài chính. Các loại tiền tài sản bao gồm:
* Các loại tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và tổ chức tại các ngân hàng thương mại, các quỹ
tín dụng: loại tiền này đem lại mức sinh lợi khá ổn định cho người sở hữu và được thực hiện với
nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao, bao gồm:
+ Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại các quỹ tiết kiệm, các ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng.
Sự phân biệt này giúp cho NHTW sắp xếp vào các khối tiền tương ứng để dễ theo dõi mức độ đầu
tư và khả năng huy động nguồn tài chính trong công chúng qua hệ thống ngân hàng.
* Các khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ.
Các nước có thị trường tiền tệ phát triển luôn có xu hướng huy động rất đa dạng các nguồn
tiền gửi với quy mô từ nhỏ đến lớn cũng như thời gian huy động từ ngắn đến dài. Người sở hữu các
khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ có lợi thế vừa được hưởng lãi suất cao mà khi cần có thể phát

mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao
gồm:
+ Tiền đang lưu hành: gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu
hành ngoài hệ thống ngân hàng. Xét về chủng loại, tiền đang lưu hành bao gồm các loại tiền giấy,
tiền xu, ngân phiếu
+ Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có
thể rút ra hoặc phát hành séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ vào bất kỳ lúc nào.
- Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Đây là phép đo khối lượng tiền rộng hơn
trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M1.
+ Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại.
- Khối tiền tệ M3: Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M2.
+ Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
- Khối tiền tệ L: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Khối tiền tệ M3.
+ Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao, tức là dễ chuyển thành tiền mặt,
có thể kể đến như: thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,
Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất. Khi khối tiền tệ
được mở rộng theo các phép đo từ M1 đến L thì tính lỏng của nó càng thấp.
2.1.2. Nhu cầu tiền trong nền kinh tế:
Có thể hiểu cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các chủ thể trong xã hội cần sử dụng để thỏa
mãn các nhu cầu của mình. Trong nền kinh tế tiền tệ, có 2 nhu cầu sử dụng tiền chủ yếu chi phối
đời sống kinh tế xã hội là nhu cầu tiền phục vụ đầu tư và nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng.
* Nhu cầu tiền phục vụ đầu tư:
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tiền cho đầu tư của các chủ thể càng đa dạng và
phong phú. Xảy ra điều này do các DN muốn mở rộng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh,
muốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi; Các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng tiền
tiết kiệm của mình,
Nhu cầu tiền cho đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng là mối quan hệ giữa lãi suất tín

các tổ chức, đồng thời thực hiện cho vay. Các ngân hàng trung gian chính là các NHTM, các công
ty tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Trên thị
trường tài chính, các ngân hàng trung gian có chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ giữa các chủ thế
cung ứng vốn và chủ thể cầu vốn, đồng thời cung ứng một số loại tiền vào lưu thông, đó là tiền ghi
sổ được sử dụng thông qua các phương tiên thanh toán không dùng tiền mặt (như là séc, lệnh chi,
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu ….), các loại thẻ thanh toán và các giấy tờ có giá như trái phiếu ngân
hàng thương mại, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng….
-Các chủ thể khác: Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, các loại chứng từ có giá
có tính thanh khoản cao thì Nhà nước và các doanh nghiệp cũng có thể được coi là các chủ thể cung
ứng tiền trong nền kinh tế. Vì, khi đó, các chứng từ có giá do Nhà nước và các doanh nghiệp (đặc
biệt là công ty cổ phần) phát hành có thể làm cho thành phần khối tiền thêm phong phú. Các loại
giấy tờ có giá được xem như là một hình thức tiền trong nền kinh tế do Nhà nước và các doanh
nghiệp phát hành là Trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu…
2.1.4. Một số lý thuyết về tiền tệ
2.1.4.1. Quy luật lưu thông tiền tệ của K. Mark
Theo quan điểm của K. Mark, khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ bằng tổng giá cả
hàng hoá trong lưu thông chia cho tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ.
K
c
= H/V
Trong đó: K
c
là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H là tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông
V là tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ.
K. Mark cho rằng:
- Khối lượng tiền tệ trong lưu thông phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông.
Điều này giải thích cung tiền tệ đáp ứng cầu tiền tệ, khi đó lạm phát sẽ không phát sinh.
- Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông
sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên, hay nói cách khác là cung đã vượt quá cầu tiền tệ, nguy cơ lạm

-
Giá cả
hàng hóa,
dịch vụ
bán chịu
+
Giá cả hàng
hóa, dịch vụ
bán chịu đến
hạn thanh toán
-
Giá cả hàng
hóa, dịch vụ
thanh toán
bù trừ
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền trong kỳ
Theo Fisher, M tỷ lệ thuận với P,Q (chủ yếu là P) và tỷ lệ nghịch với V. Song các yếu tố V,
Q tương đối cố định trong ngắn hạn do tính thiếu co giãn của chúng. Bởi lẽ, trong thời gian ngắn
các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, giao thông vận tải, tín dụng,… ít thay đổi do tập quán tiêu dùng,
thói quen chi trả, tần số chi trả chậm thay đổi. V, Q chỉ thay đổi trong dài hạn. Tư tưởng chủ đạo
của Fisher vẫn là M quyết định P. Từ công thức trên ta có:
P = M.V/Q
Ở đây, P bị Q, V và M chi phối nhưng chủ yếu vẫn là M.
Trên quan điểm V là một hằng số, gọi K= 1/V là thời gian trung bình mà người dân nắm giữ
tiền mặt; P.Q: Thu nhập danh nghĩa. Từ công thức:
M= K. (P.Q)
Fisher đã đi đến kết luận:
Cầu về tiền tệ là một hàm số được xác định bởi:
- Mức thu nhập danh nghĩa (yếu tố này được biểu thị qua thành phần P.Q)
- Thói quen tiến hành các giao dịch của dân chúng và nguồn cung ứng vào lưu thông tăng hay giảm

Keynes coi của cải dưới dạng tiền tệ là linh hoạt nhất, việc chuyển tiền thành tư bản cho vay
được ông gọi là “sở thích chi tiêu”, Khi cho vay, người cho vay đã chấp nhận mạo hiểm nên lãi suất
được gọi là phần thưởng dành cho họ.
Lãi suất có chiều hướng biến động tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa vào lưu thông nên theo
ông, muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì nhà nước nên phát hành thêm tiền vào lưu thông.
Lãi suất cũng chịu ảnh hưởng từ sự ưa thích tiền mặt mà sự ưa thích tiền mặt cũng được phát sinh
từ các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng tiền mặt trong lưu thông. Khi nhu cầu về tiền mặt để
đáp ứng các giao dịch trong nền kinh tế tăng lên thì khối lượng tiền nhàn rỗi để gửi tiết kiệm sẽ
giảm xuống, từ đó làm cho lãi suất tín dụng có xu hướng tăng lên. Cũng như vậy, khi nhu cầu dự
phòng bằng tiền mặt hoặc đầu cơ tiền mặt tăng lên trong nền kinh tế xã hội thì người dân có xu
hướng giữ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu này thay vì đem gửi tiết kiệm. Khi đó, do khan hiếm
tiền, các ngân hàng có xu hướng tăng lãi suất để huy động vốn. Như vậy, có ba yếu tố tác động đến
sự ưa thích tiền mặt trong xã hội, đó là động cơ giao dịch, động cơ dự phòng và động cơ đầu cơ.
Trong ba động cơ trên, thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh nhất đến động cơ đầu cơ.
Nếu gọi r là lãi suất, M là khối lượng tiền tệ và L là hàm số ưa chuộng tiền mặt thì:
M = L(r)
Từ đó, ông đưa ra phương trình:
M = M
1
+ M
2
= L
1
(R) + L
2
(r)
Trong đó:
- M là sự ưa thích tiền mặt
- M
1

- Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá - gọi là lạm phát giá cả. Theo quan
điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của hàng hoá. Khi đó, giá cả của hàng hoá không
phản ánh đúng giá trị của chúng (giá cả cao hơn giá trị thực của hàng hoá), điều đó có nghĩa sức
mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả của việc gia
tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại lạm phát cao kéo theo một sự tăng
trưởng tiền tệ cao.
- Lạm phát nhu cầu: là lạm phát do cầu quá mức- gọi là lạm phát cầu kéo. Lạm phát này xảy
ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn dến tăng tổng cung tiền, trong
điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm phát nhu cầu có thể bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách hay tăng cầu
tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa.
Khi các nhà hoạch định chính sách theo đuổi mục tiêu duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên thì họ sẽ phải hoạch định các chính sách để tăng tổng cầu (để đạt được một
chỉ tiêu sản phẩm Y
T
lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm Y
N
). Tác động đó đã làm cho đường
tổng cầu dịch chuyển từ AD
1
đến AD
2
, điểm cân bằng của nền kinh tế dịch chuyển từ điểm 1 đến
1’. Tuy nhiên, tại điểm này, tỷ lệ thất nghiệp là dưới mức tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường
tổng cung sẽ dịch chuyển từ AS
1
đến AS
2
, đưa nền kinh tế từ điểm 1 đến điểm 2. Nền kinh tế lui về

P
1
Y
N
Y
T
Y
4
3
2
1
1’
2’
3’
LRASP
quá mức tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử dụng vốn từ NSNN và vốn tín dụng kém
hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số sản phẩm thiết yếu tăng lên; sự lãng phí quá mức trong
tiêu dùng xã hội; nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các chứng từ có giá bị lạm dụng;…
Giả sử công nhân đòi tăng lương làm cho đường tổng cung di chuyển từ AS
1
đến AS
2
. Nếu
chính sách tiền tệ của Chính phủ vẫn không thay đổi thì điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ chuyển từ
điểm 1 tới điểm 1’. Sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên của nó (Y
N
→ Y’) và giá cả sẽ
tăng đến P
1
’.

con số (tối đa là 200%). Trong điều kiện lạm phát phi mã, nền sản xuất sẽ không phát triển và hệ
thống tài chính quốc gia đó sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Các quốc gia Mỹ La tinh đã hứng chịu lạm
mức lạm phát từ 20% đến 200% trong suốt thời kỳ từ 1980 đến 1999. Việt nam những năm 1976
đến 1994 cũng trải qua thời kỳ lạm phát cao, hầu hết chỉ số lạm phát các năm đều là 2 con số.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng với tỷ lệ trên 200%. Siêu lạm phát
phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm với hiện tượng suy thoái nền kinh tế nghiêm trọng.
Điển hình ví dụ về hiện tượng lạm phát này là lạm phát ở Đức những năm 1922-1924; lạm phát ở
Nga sau Cách mạng tháng 10; lạm phát ở Mỹ thời kỳ nội chiến hay ở Zinbabwe với tốc độ lạm phát
tại thời điểm tháng 7/2008 là 2.200.000%. Việt nam cũng đã trải qua siêu lạm phát trong những
năm 1986-1987-1988 với mức độ lạm phát đỉnh điểm vào năm 1987 là 776%.
2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế:
Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia thành các nhóm nguyên
nhân như sau:
AS
4
AS
3
AS
2
AS
1
AD
1
AD
2
AD
3
AD
4
P

lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá nhu cầu của nền
kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong thực tế, do quản lý điều
hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh có thể làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào. Khi giá
cả của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá các nguyên nhiên vật liệu
cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng, ) gia tăng sẽ đội giá thành sản phẩm và
làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá bán của các các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra
hiệu ứng tăng giá dây chuyền trên diện rộng. Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát.Trong
trường hợp này, khi giá cả của hàng hóa tăng lên trên diện rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với
giá cả các yếu tố đầu vào. Quá trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở
mức độ cao đều ẩn chứa các nguyên nhân này.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra những rủi ro như dịch bệnh,
hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa, trên diện rộng thường để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền
kinh tế xã hội và để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần chi một lượng tiền không nhỏ vào lưu thông.
Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất thời cũng là một hiện tượng tất yếu của
hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này, nếu Chính phủ không có những kế sách khắc phục những rủi ro
này một cách phù hợp thì chính những hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền kinh tế rơi vào
lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh
tế yếu kém.
Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi một số nguyên nhân khác
như là: xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ,…
Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt nguồn bởi một hoặc một
nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng hợp tác động của nhiều nguyên nhân nêu trên.
2.2.3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế xã hội.
Lạm phát là một hiện tượng rất phổ biến của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tùy
thuộc vào mức độ của lạm phát mà nó có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã
hội.
- Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích nền kinh tế xã hội phát triển.
Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là một chính sách của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Thông thường, khi chính phủ tăng cung tiền tệ ở mức hợp lý thì sẽ có tác dụng kích thích

kinh tế xã hội của đất nước.
2.2.4. Các biện pháp kiểm soát lạm phát.
2.2.4.1. Giải pháp tình thế:
Đây được coi là những giải pháp được áp dụng với mục đích giảm tức thời "cơn sốt" lạm phát
để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược lâu dài.
- Biện pháp về tiền tệ- tín dụng: Mục đích của biện pháp này là giảm bớt lượng tiền mặt trong
lưu thông, và kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ. Vì thế, NHTW và các ngân hàng thương
mại cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
+ Thắt chặt cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ. Trong thời kỳ lạm phát cao
xảy ra, NHTW không được phép phát hành thêm tiền vào lưu thông dưới bất kì hình thức nào, thậm
chí ngay cả đối với những khoản tiền nhằm thực hiện các chương trình, chính sách chưa thực sự
cấp thiết của Chính phủ cũng có thể bị hoãn lại nhằm hạn chế tối đa hiện tượng tăng tiền trong lưu
thông.
+ Quản lí và hạn chế tối đa khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, xiết chặt tín dụng, xây dựng hạn mức tín dụng tối đa đối với các ngân hàng thương mại…
nhằm hạn chế việc các ngân hàng thương mại cho các cá nhân và các tổ chức vay vốn không cần
thiết.
+ Nâng cao lãi suất tín dụng: NHTW có thể sử dụng lãi suất cơ bản hoặc khung lãi suất để can
thiệp vào biểu lãi suất huy đông và cho vay của các ngân hàng thương mại. Theo đó, mức lãi suất
tín dụng chung trên thị trường được điều tiết tăng lên, một mặt để hạn chế các chủ thể vay vốn từ
các tổ chức tín dụng một cách không cần tiết, mặt khác, để thu hút dân chúng gửi tiền tiết kiệm
hưởng lãi cao nhằm hút bớt lượng tiền có xu hướng nhàn rỗi, dư thừa trong lưu thông. Để biện
pháp này thật sự có hiệu quả thì mức lãi suất phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ lạm phát,
đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0.
+ Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong công chúng: bên
cạnh các hình thức nhận tiền gửi thông thường, cần phát triển các hình thức hấp dẫn như là gửi tiền
có thưởng, gửi tiền nhận lãi trước, tiền gửi lãi suất bậc thang, hay phát hành các loại trái phiếu, tín
phiếu ngân hàng có lãi suất cao,… nhằm thu hút dân chúng gửi tiền hoặc mua trái phiếu…
- Biện pháp về điều hành ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình trạng mất cân đối trong thu
chi NS tiến tới cân bằng ngân sách.

định lạm phát.
2.3. Thiểu phát
2.3.1. Khái niệm
Thiểu phát có thể được hiểu là hiện tượng kinh tế tiền tệ xuất hiện khi lượng cung hàng hóa
dịch vụ lớn hơn nhu cầu của nền kinh tế làm cho giá cả của các hàng hóa, dịch vụ giảm xuống.
2.3.2. Nguyên nhân của thiểu phát:
Hiện tượng thiểu phát có thể xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Sự tăng nhanh của tổng cung hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Điều này có thể do:
+ Sự tiến bộ của KH công nghệ trong lĩnh vực sản xuất khiến hàng hóa sản xuất ra ngày
càng nhiều.
+ Sản lượng sản xuất gia tăng nhanh hơn so với khả năng tiêu thụ của nền kinh tế. + Hàng
hóa nhập khẩu với giá rẻ gia tăng.
+ Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới giảm, từ đó làm khả năng xuất khẩu giảm dẫn đến
hàng hóa trong nước dư thừa.
- Sự suy giảm của tổng cầu trong nền kinh tế có thể do:
+ Tổng mức vốn đầu tư của XH giảm dẫn đến cầu đầu tư giảm
+ Tiền lương và thu nhập của người lao động giảm nên người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu.
+ Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn đến giá cả hàng hóa trên thị trường thế
giới giảm. Từ đó, làm cho xuất khẩu giảm và hậu quả là thu nhập của người lao động và Nhà nước
giảm.
+ Chính phủ thắt chặt chi tiêu làm cho tổng cầu xã hội giảm.
2.3.3. Ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế xã hội
Mặc dù là một hiện tượng không phổ biến như lạm phát trong nền kinh tế, nhưng khi thiểu
phát xảy ra, cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định.
+ Đối với lĩnh vực sản xuất, thiểu phát làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm, dẫn đến lợi
nhuận ngày càng giảm sút. Hàng hóa dịch vụ trở nên khó tiêu thụ hơn, từ đó làm cho qui mô sản
xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản
xuất.
+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thiểu phát làm hiện tượng hàng hóa bị ế thừa tồn
đọng ngày càng tăng lên, do lượng cung hàng quá lớn trong khi tổng cầu của xã hội giảm làm cho

* Chính sách tiền tệ: NHTW điều tiết giảm lãi suất tín dụng trên thị trường, gia tăng hạn
mức tín dụng cho người vay, nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích cầu tín dụng. Một mặt, hạn chế
bớt lượng dân cư gửi tiền tiết kiệm ở các tổ chức tín dụng bởi lãi suất tiền gửi thấp, mặt khác, kích
thích các chủ thể khác vay tiền từ tổ chức tín dụng bởi được hưởng lãi suất vay thấp. Qua đó, khối
lượng tiền phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế sẽ tăng lên.
* Chính sách thu nhập: Tăng tiền lương cho người lao động, tăng các khoản phúc lợi
XH… nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong tieu dùng,
mua sắm hàng hóa dịch vụ của người dân.
* Các giải pháp khác:
+ Nhà nước có chính sách hỗ trợ DN trong việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong
nước và thị trường nước ngoài.
+ Hạn chế nhập khẩu (bảo hộ hàng hóa nội địa, chống buôn lậu,…), đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu (điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái, giảm thuế và trợ cấp để kích thích xuất khẩu,mở rộng thị
trường xuất khẩu, …)
2.3.4.2. Giải pháp chiến lược
Giải pháp chiến lược nhằm đem lại hiệu quả lâu dài đối với nền kinh tế. Nhóm giải pháp
này được áp dụng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế không rơi vào tình trạng thiểu phát.
+ Nhà nước điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư và cơ cấu xuất nhập khẩu để đảm bảo
sự phát triển cân đổi, ổn định và bền vững của nền sản xuất, tránh tình trạng dư thừa sản lượng tiêu
thụ ở một số mặt hàng trong dài hạn, dẫn đến tác động dây chuyền (hiệu ứng đô-mi-nô) tới hàng
loạt các hàng hóa khác và là nguyên nhân gây ra thiểu phát.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước, thường xuyên theo dõi các
biến động của nền kinh tế, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp điều chỉnh kịp thời, ngăn chặn có
hiệu quả các hiện tượng tiêu cực của nền kinh tế ngay từ khi mới xuất hiện mầm mống.
Chương 3
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
Sự hình thành và phát triển các tổ chức tài chính trung gian bắt nguồn từ nhu cầu giao lưu
vốn trong nền kinh tế. Các tổ chức tài chính trung gian được xem là cầu nối giữa các chủ thể tạm
thời thừa vốn và các chủ thể tạm thời thiếu vốn. Mục đích của chương này là cung cấp cho người
học những kiến thức cơ bản về các tổ chức tài chính trung gian. Nội dung của chương đề cập đến

thể này bao gồm các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức kinh tế, Nhà nước và các tổ chức xã
hội. Trên cơ sở số thu nhập có được, bằng việc tiết kiệm các khoản chi tiêu trong tiêu dùng, các chủ
thể này sử dụng số tiền tiết kiệm được để cung cấp cho hệ thống tài chính mà chủ yếu là tổ chức tài
chính trung gian để kiếm lời. Những chủ thể cần vốn cuối cùng là các chủ thể có nhu cầu vốn để tài
Nhóm người tiết
kiệm cuối cùng
- Hộ gia đình, cá
nhân
- Các tổ chức XH.
- Tổ chức kinh tế
(Doanh nghiệp)
TỔ
CHỨC
TÀI
CHÍNH
TRUNG
GIAN
Nhóm người cần
vốn cuối cùng
- Tổ chức kinh tế
(Doanh nghiệp)
- Nhà nước
- Hộ gia đình, cá
nhân
trợ cho các hoạt động của mình, họ chính là các tổ chức kinh tế, Nhà nước, hộ gia đình, cá nhân và
các tổ chức xã hội. Những chủ thể này đang tiến hành thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh
doanh, cung cấp hàng hóa cho xã hội nhưng nhu cầu vốn đầu tư vượt quá khả năng tự tài trợ nên họ
buộc phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ người tiết kiệm cuối cùng trên thị trường tài chính.
b. Đặc điểm
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều tổ chức tài chính trung gian, tuy nhiên nhìn chung

+ Trung gian thông tin: Bằng những kỹ năng của mình, các tổ chức tài chính trung gian thay
thế những người tiết kiệm tiếp cận thông tin và đánh giá khả năng của người cần vốn cuối cùng để
đánh giá và đặt vốn đầu tư một cách có hiệu quả.
3.1.2. Phân loại các tổ chức tài chính trung gian:
a. Căn cứ vào phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
Các yếu tố đầu vào
- Nhà cửa, máy móc,
trang thiết bị, phương
tiện
- Vốn bằng tiền
- Người lao động
TỔ
CHỨC
TÀI
CHÍNH
TRUNG
GIAN
Các dịch vụ đầu ra
- Nhận tiền gửi tiết
kiệm
- Cho vay
- Các dịch vụ tài
chính khác
Các tổ chức tài chính trung gian được chia làm hai nhóm:
- Ngân hàng: là tổ chức tài chính trung gian thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Tổ chức tài chính phi ngân hàng: là loại hình tổ chức tài chính trung gian không hội đủ các
điều kiện để trở thành ngân hàng.

bảo hiểm theo hợp đồng đã bán.
- Các công ty tài chính: Công ty tài chính là một trung gian tài chính tín dụng, được thành
lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Khác với ngân hàng thương
mại, công ty tài chính không được nhận tiền gửi thường xuyên dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn của
khách hàng, không thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.
- Các loại quỹ đầu tư: Là những tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn
của các nhà đầu tư thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và dùng số tiền thu được để đầu
tư góp vốn kinh doanh hoặc đầu từ vào các loại chứng khoán khác như cổ phiếu, trái phiếu,
- Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương: Tổ chức tài chính trung gian này cũng giống như các
quỹ tiết kiệm, nhưng khác ở chỗ, chúng được tổ chức như những hiệp hội tương trợ, tức là hoạt
động như kiểu hợp tác xã, trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.
- Các quỹ hưu trí: Là trung gian tài chính huy động vốn bằng cách nhận đóng góp từ người
lao động trong các doanh nghiệp hoặc khu vực Nhà nước, sau đó đầu tư tiền vào các loại chứng
khoán để sinh lời. Tiền sẽ được trả lại cho các thành viên của quỹ dưới hình thức tiền hưu trí.
b. Căn cứ vào mức độ thực hiện chức năng trung gian:
- Các tổ chức nhận tiền gửi:
Đây là các tổ chức tài chính trung gian hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
từ các tổ chức và cá nhân, sau đó sử dụng nguồn vốn này để cho vay. Thuộc về các tổ chức nhận
tiền gửi gồm có:
+ Các ngân hàng thương mại
+ Các quỹ tín dụng
+ Các quỹ tiết kiệm
+ Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương.
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng:
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng thu nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp đồng
thoả thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thị trường vốn dưới các loại tài sản tài chính dài
hạn như: chứng khoán vốn, chứng khoán nợ. Do nguồn vốn huy động có đặc điểm là ổn định và dự
đoán được, nên tính lỏng của các tài sản tài chính không phải là tiêu thức ưu tiên hàng đầu trong
quản lý tài sản của các định chế tiết kiệm theo hợp đồng. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng bao
gồm:

là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước. Với chức năng này
các tổ chức tài chính trung gian đáp ứng chính xác, đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các tổ
chức và cá nhân. Ngoài việc mang lại lợi ích cho chính các định chế tài chính trung gian, chức
năng này còn mang lại lợi ích cho những người cần vốn trong nền kinh tế.
c. Chức năng kiểm soát.
Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng kiểm soát nhằm giảm tới mức tối thiểu
vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do tình trạng thông tin bất cân xứng gây ra; yêu cầu
của chức năng này là các tổ chức tài chính trung gian phải thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát
trước, trong và sau khi cung ứng vốn cho khách hàng.
3.1.3.2. Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh tế thị trường
a. Chu chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status