Tài liệu LUẬN VĂN: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương Mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank ) - Pdf 10

LUẬN VĂN:

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng
Thương Mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam
(Techcombank )

Mở đầu
Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động hết sức quan trọng đối với
các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn mở của buôn bán và giao lưu quốc tế. Hoạt động trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau ngày càng được mở rộng, càng được đẩy
mạnh, thanh toán giữa các tổ chức với nhau diễn ra trong những điều kiện đầy rủi ro

một số vấn đề cơ bản của hoạt động thanh toán
quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.1.vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại ra đời tồn tại song song và gắn bó với lịch sử phát triển
nền kinh tế quốc dân. Những đóng góp của ngành ngân hàng Việt Nam cho đất
nước có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người thừa nhận. Trong thời đại nền
kinh tế thông tin và kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế thì vai trò của ngân hàng
càng quan trọng.
Trong các định chế tài chính, ngân hàng thương mại là định chế có kỳ hạn quan
trọng nhất, điều này được chứng minh trong tính ưu việt và tầm quan trọng của
chúng.
Có thể thấy tầm quan trọng của ngân hàng thương mại thông qua các chức năng
của nó .
 Chức năng tạo tiền:
Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng là khả năng tạo tiền và huỷ
tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của
ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng có mục tiêu là kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu
cầu tín dụng của cộng đồng. Ngân hàng phải xác định một tỷ lệ phân chia vốn hợp
lý trong phạm vi khoản mục cho vay, điều này có nghĩa là vốn phải được phân chia
vào các mục tiêu tiêu dùng, đầu tư, thương mại một cách hợp lý. Sự phân chia này
phụ thuộc vào khả năng sinh lời của từng lĩnh vực và phụ thuộc mục tiêu kinh
doanh riêng của từng ngân hàng. Hoạt động tín dụng có một vai trò rất quan trọng
nó giúp điều hoà cung cầu tiền tệ trên thị trường, giúp ổn định giá cả, tạo được việc
làm cho người lao động và giúp cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh một
cách liên tục.
 Chức năng thanh toán:
Cơ chế thanh toán hay sự vận động của vốn là môt trong những chức năng quan
trọng do ngân hàng thương mại thực hiện. Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế,

thương, nhưng nó có sự khác biệt đáng kể như là: các bên giao dịch thuộc các quốc
gia khác nhau, hàng hoá được trao đổi qua biên giới, đồng tiền thanh toán là đồng
ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai nước, khác nhau về mặt ngôn ngữ Chính vì
có những sự khác biệt này, mà các hoạt động ngoại thương cần đến ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại có khả năng cung ứng ngoại tệ một cách nhanh
chóng, giúp cho các bên mua đảm bảo được việc nhận hàng, bên bán đảm bảo thu

được tiền hàng. Như vậy có thể nói, ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện rất lớn
cho hoạt động ngoại thương.
 Ngoài những chức năng trên, ngân hàng còn có một số chức năng khác như:
dịch vụ uỷ thác, bảo quản an toàn vật có giá, bảo lãnh tín dụng, thương mại
1.1.2. Vai trò, tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế tại
Ngân hàng Thương mại.
a. Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan
tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa các tổ chức, các
công ty và các chủ thể khác nhau của các nước.
Một cách khác thanh toán quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những khoản
ngoại tệ, tín dụng có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận quy
định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
b. Tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế là một trong những khâu quan trọng trong xuất nhập khẩu
hàng hoá, hay nói rộng hơn thì nó là một khâu quan trọng của hoạt động thương mại
quốc tế.
Khái niệm: Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước
thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt giữa


Trong đó :
(1) Người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu.
(2) Người xuất khẩu tiến hành giao chứng từ cho người nhập khẩu.
(3) Giao hàng đối lưu (người nhập khẩu đồng thời là người xuất khẩu và ngược
lại).
(4) Chuyển giao nghĩa vụ, khoản nợ.
(5) Người nhập khẩu tiến hành giao tiền cho người xuất khẩu.
Sự kết hợp các luồng dịch chuyển ở sơ đồ trên tạo ra một số phương thức thanh
toán.
Khi (1) kết hợp với (2) người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập
khẩu, sau đó chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu đi nhận hàng. Việc thanh
toán giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu có thể bằng cách giao trực tiếp,
nhưng trên thực tế do cách xa về mặt địa lý mà việc thanh toán trực tiếp ở đây là rất
ít. Mặt khác sau khi giao hàng và chứng từ người xuất khẩu không chắc chắn việc
thu tiền của mình nên họ phải nhờ đến bên thứ ba có thể là hệ thống ngân hàng
thương mại để đảm bảo việc thu tiền của mình. Hệ thống ngân hàng thương mại có
vai trò như thế nào còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa người nhập khẩu và xuất
khẩu. Phương thức thanh toán được hình thành ở đây có thể là nhờ thu, chuyển tiền,
L/C. Khi khách hàng áp dụng phương thức L/C thì vai trò của ngân hàng là rất lớn,
điều này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
(1) Kết hợp với (3) đây là phương thức giao hàng đối lưu. Phương thức giao
dịch này người xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với người nhập khẩu, người bán đồng
thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương đương. Đồng tiền
ở đây đóng vai trò là đồng tiền tính giá. Trong trường hợp này có thể cần đến hệ
thống ngân hàng thương mại như một nhà trung gian giúp đảm bảo thực hiện hợp
đồng bằng cách dùng thư tín thương mại đối ứng, khống chế chứng từ sở hữu hàng
hoá.
(2) Kết hợp với (4) ở đây bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho bên
thứ ba, khi này nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu không còn thuộc nghĩa

hoá. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn phụ thuộc vào
hoạt động thanh toán. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt nam trong những
năm đổi mới đã làm cho hoạt động thanh toán quốc tế có điều kiện phát triển, sự
xoá bỏ dần các điều kiện ràng buộc như hàng rào thuế quan, tham gia vào quá trình
quốc tế hoá đời sống là một trong những yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
của hoạt động thanh toán quốc tế.
Quá trình buôn bán trao đổi hàng hoá làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng tiền,
phát sinh nghĩa vụ thanh toán giữa các bên với nhau, đây là khâu cuối cùng của sản
xuất và lưu thông, sự kết thúc của thương vụ, các quan hệ hàng tiền trở nên gắn liền

với nhau thông qua trao đổi. Như vậy xu hướng mở rộng nền kinh tế một lần nữa đã
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt
động thanh toán quốc tế nói riêng.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm:
Như trên đã nêu: thanh toán quốc tế là việc chi trả những khoản ngoại
tệ, tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả
thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
Trong xuất nhập khẩu hàng hoá, việc thanh toán cần phải xét đến các vấn đề:

+ Tỷ giá hối đoái.
+ Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
+ Thời hạn trong thanh toán.
+ Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
+ Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
+ Các điều kiện đảm bảo tín dụng.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, có rất nhiều vấn đề có liên quan

Thanh toán mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá,
dịch vụ thương mại kết hợp với xuất nhập khẩu dựa trên giá quốc tế. Trong thanh
toán mậu dịch các bên tham gia sẽ bị ràng buộc bởi hợp đồng kinh tế đã ký kết và
các cam kết thương mại khác. Nếu hai bên không ký hợp đồng mà chỉ có đơn đặt
hàng thì sẽ căn cứ vào đại diện các bên giao dịch.
Xuất phát từ khái niệm của thanh toán mậu dịch ta thấy rằng đây là một hoạt
động phức tạp, có nhiều bên tham gia, việc thanh toán này xuất hiện dựa trên cơ sở
buôn bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Đối với loại này nó ràng buộc trách nhiệm của các bên bởi các chứng từ mua bán,
bởi các thoả thuận mang tính chất pháp luật, nó được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống
luật khác nhau. Chính vì vậy thanh toán mậu dịch có mức độ rủi ro cao và đây là đối
tượng của hoạt động thanh toán quốc tế, là đối tượng của ngân hàng thương mại.
Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan tới
hàng hoá không có tính thương mại. Thanh toán phi mậu dịch bao gồm các chi phí
của các cơ quan ngoại giao ở các nước sở tại, chi phí vận tải, chi phí đi lại của các
đoàn khách Chính phủ của các tổ chức của các đoàn khách cá nhân.
Dựa trên khái niệm ta có thể thấy thanh toán phi mậu dịch đơn giản hơn nhiều
so với thanh toán mậu dịch, đối với ngân hàng thương mại thì thanh toán mậu dịch
là đối tượng chính.

Từ sau đại hội đảng VI- 1986, nền kinh tế đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nền kinh tế
Viêt Nam từ đó đến nay có bước phát triển không ngừng, từ một nền kinh tế nghèo
nàn lạc hậu chúng ta đã và đang xây dựng một nền kinh tế thị trường ổn định ngày
càng phát triển, người dân từ chỗ mong mỏi thoả mãn nhu cầu tối thiểu của họ hiện
nay đã quan tâm tới nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội và xa hơn nữa là nhu cầu cá
nhân. Cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, mức tăng trưởng bình

nhân gây ra việc lập hối phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và nội dung có liên
quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do
nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Một khi tách ra khỏi hợp đồng đến tay người thứ
ba thì hồi phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ không phải trái vụ sinh ra từ hợp
đồng. Hay nói một cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.
 Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu:
Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ phiếu.
Người trả tiền không thể viện những lý do riêng của mình với người ký phát phiếu,
người ký hậu mà từ chối trả tiền, trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo
luật chi phối nó. Ví dụ một người đặt hàng máy móc sau khi ký hợp đồng đã chấp
nhận trả tiền vào tờ phiếu do người cung cấp hàng gửi đến, hối phiếu đó đã được
chuyển sang tay người thứ ba thì người đặt hàng bắt buộc phải trả tiền cho người
cầm phiếu này ngay cả trong trường hợp người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng
không giao hàng cho người mua.
 Tính lưu thông của hối phiếu.
Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn cuả
nó. Sở dĩ có được đặc điểm này, bởi vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của người này đối
với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền nhất định, có một thời hạn nhất định,
thời hạn này thường là ngắn hạn và được người trả tiền chấp nhận. Tóm lại nhờ vào
tính trừu tượng và tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu, mà hối phiếu có được tính
lưu thông.
b. Các loại hối phiếu.
 Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiều làm ba loại:
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do
người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định, thường từ 5-7 ngày: người
trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cấm phiếu xuất trình thì tiến hành ký
chấp nhận trả tiền, sau đó từ 5-7 ngày thì trả tiền tờ hối phiếu đó.
người nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh toán hàng hoá xuất khẩu hoặc dịch vụ
cung ứng.
+ Hối phiếu ngân hàng là hối phiếu do ngân hàng phát ra lệnh cho đại lý của
mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng lợi chỉ định trên hối phiếu.

1.2.3.2. Séc trong thanh toán quốc tế.
Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở của lưu thông hàng hoá thì séc hình
thành trên cơ sở lưu thông tín dụng ngân hàng.
Những người có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng đều có thể yêu
cầu ngân hàng trích tiền của mình từ tài khoản đó để trả cho người khác. Yêu cầu
này được làm bằng văn bản dưới dạng hình mẫu nhất định, đó là séc (cheque).
a. Khái niệm.
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của ngân
hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình mở ở
ngân hàng để trả cho người cầm séc.
Xuất phát từ khái niệm trên mà séc không chỉ là phương tiện chi trả được sử dụng
phổ biến trong thanh toán nội bộ mà còn được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên việc thanh toán bằng séc phụ thuộc nhiều vào số dư tài khoản của séc và
thời hạn hiệu lực séc. Nhược điểm này khiến séc ít được sử dụng hơn trong thanh
toán so với hối phiếu.
b. Các loại Séc.
+ Séc vô danh (cheque to bearer): Là loại séc không ghi tên người hưởng lợi,
chỉ ghi câu “Trả cho người cầm séc” (Pay to the bearer). Đối với loại séc này, ai
cầm được séc đều có thể lĩnh được tiền.
+ Séc đích danh (nominal cheque): Loại séc chỉ định rõ tên người được
hưởng và chỉ có người này mới được lĩnh tiền.
+ Séc theo lệnh (cheque to order): Loại séc ghi “trả theo lệnh” của người

Kỳ phiếu là một chứng từ cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập hối phiếu
ký phát, trong đó người lập hối phiếu cam kết trả một khoản tiền nhất định cho
người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho một người thứ ba theo quy
định trong kỳ phiếu.
Đối với kỳ phiếu, luật không áp dụng thể thức chấp nhận và trong kỳ phiếu người
ký phát ra lệnh cho chính mình trả tiền cho người hưởng lợi.
1.2.3.4. Thư tín dụng (L/C).
a. Khái niệm.
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội
dung của L/C.

b. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng.
+ Số hiệu của thư tín dụng: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng
của nó, tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến thư
tín dụng.
+ Địa điểm mở thư tín dụng: Là nơi mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền
cho người xuất khẩu.
+ Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C
với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính hiệu lực của L/C và nó là căn cứ để người
xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng như hạn quy định trong
hợp đồng không.
+ Tên địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ như người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người hưởng lợi, ngân hàng
mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận.
+ Số tiền của thư tín dụng: Vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ và
phải thống nhất nhau.Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng.

gia tín dụng.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể huỷ
bỏ được một ngân hàng xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở
L/C.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi: là loại L/C mà sau khi người xuất
khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại tiền người xuất
khẩu trong bất cứ trường hợp nào.
- Thư tín dụng chuyển nhượng: Là thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy
định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển
nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác.
L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển một lần.
- Thư tín dụng tuần hoàn: Là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng hoặc đã
hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cỡ có tính chất quan trọng, nó
hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi thiết lập, nó lại hoàn
toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Thư tín dụng là phương tiện rất quan trọng
trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ , không mở được thư tín dụng
chứng từ thì phương thức này không được xác lập và người bán không thể giao
hàng cho người mua.
1.2.4. Các phương thức thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại .
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện
thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán tức là chỉ người bán làm cách nào để
thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong thanh toán người ta có thể

chọn nhiều nhiều phương thức khác nhau, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn
phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ
và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng về số lượng, chất lượng và thời
hạn.


Ngân hàng
đ
ại lý

Người hưởng
l
ợi

Người chuyển
ti
ền (3) Ngân hàng chuyển tiền kiểm tra nếu thấy hợp lệ thì sẽ trích tài khoản của người
nhập khẩu để chuyển tiền và gửi giấy báo nợ, giấy báo đã thanh toán cho người
nhập khẩu.
(4) Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài
trích tiền trả cho người hưởng lợi.
(5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền trả cho người hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp
qua ngân hàng khác.
c. Các hình thức chuyển tiền.
+ Chuyển tiền bằng điện(T/T): Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh cho ngân hàng
đại lý của mình ở nước ngoài chuyển tiền cho người hưởng lợi.
+ Chuyển tiền bằng thư (M/T): Ngân hàng thực hiện bằng cách gửi thư cho ngân
hàng đại lý của mình ra lệnh trả tiền cho người hưởng lợi.
Phương thức chuyển tiền có ưu điểm tương đối đơn giản, thời gian tương đối

rồi thông báo cho người bán biết hoặc trả lại hối phiếu .
(2)

(5)
(1) (6) (4) (3)

Chứng từ và hàng hoá

Sơ đồ 3: Quy trình thanh toán nhờ thu phiếu trơn.
Phương thức này có ưu điểm là nhanh gọn, đơn giản nhưng nó có nhược điểm
đối với người xuất khẩu họ không chắc có nhận được tiền thanh toán hay không.
Phương thức thanh toán này có lợi cho người nhập khẩu hơn vì việc giao hàng và
thanh toán tách rời nhau. Phương thức này có khác với phương thức chuyển tiền ở
đây người bán là người chủ động đòi tiền còn ở phương thức chuyển tiền thì người
nhập khẩu là người chủ động trả tiền.
Ngân hàng
đ
ại lý

Ngân hàng
ph
ục vụ bên
Người mua Người bán


(2)
(5)
Ngân hàng
đ
ại lý

Ngân hàng
ph
ục vụ

bên
Người mua Người bán (1) (6) (4) (3)
Gửi hàng

Sơ đồ 4: Quy trình nhờ thu kèm chứng từ.
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ có ưu điểm là ngoài việc thu hộ tiền cho
người bán còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người mua, đây
chính là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn, ở
đây quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. Tuy nhiên nhờ thu kèm chứng từ
còn một số nhược điểm như :
Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng
hoá của người mua chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua, thời gian
từ lúc giao hàng đến khi nhận tiền có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm. Trong
phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ tiền, không có
Sơ đồ 5: Quy trình thanh toán theo phương thức ghi sổ.
(1) Sau khi tiến hành giao hàng và chứng từ cho người mua, người bán báo nợ trực
tiếp tới người mua.
(2), (3), (4) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền cho người bán khi
đến kỳ thanh toán.
Phương thức này nói chung không đảm bảo cho nhà xuất khẩu kịp thời thu tiền,
nó thường dùng khi hai bên mua và bán thực sự tin cậy lẫn nhau, dùng cho thanh
toán nội địa, thanh toán phi mậu dịch Phương thức này chỉ có lợi cho người mua.
1.2.4.4. Phương thức tín dụng chứng từ.
a. Khái niệm.
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (Người xin cầu mở thư
tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của
thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền
đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
quy định đề ra trong thư tín dụng.
Có thể nói, phương thức tín dụng chứng từ vẫn là phương thức thanh toán
đảm bảo hiệu quả và linh hoạt nhất trong thương mại quốc tế. Khi người mua và
người bán ở các nước khác nhau thì thường không hiểu rõ lắm về nhau, họ có nhiều
lo ngại về tính trung thực trong thanh toán. Quyền lợi giữa người mua và người bán
luôn tồn tại những mâu thuẫn, với phương thức thanh toán này đã giải quyết được
phần nào mâu thuẫn đó. Phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo cho thanh toán
hơn bằng cách quy định thông qua các điều khoản mà L/C quy định.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
+ Người xin mở thư tín dụng là người mua (người nhập khẩu hàng hoá).

bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không
thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp
với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín
dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin
thanh toán.

Ngân hàng
mở L/C
Ngân hàng
thông báo L/C
Người
nhập khẩu
Người
xuất khẩu
(5
(2
(1
(7
(8
(4
(3
(5
(6
(6)


hay không phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả do hoạt động này mang lại. Do vậy việc
đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế được xem là một trong những vấn đề cần

thiết và hết sức quan trọng của ngân hàng, đặc biệt là đối với các ngân hàng có hoạt
động thanh toán quốc tế. Chất lượng của nghiệp vụ thanh toán quốc tế được đo bằng
những đặc tính mà từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đối với một sản
phẩm dịch vụ việc đánh giá chất lượng là rất khó khăn bởi vì người ta chỉ có thể
cảm nhận đánh giá nó sau khi người ta tiêu dùng nó.
1.2.5.1. Tính an toàn và chính xác.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động dịch vụ thanh toán quốc tế và tính pháp
lý của nó mà chỉ tiêu an toàn và chính xác là kết quả quan trọng.
- Tính chính xác khi thực hiện là một yêu cầu quan trọng cần thiết trong
mọi hoạt động, đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đòi hỏi tính chính xác cao như
hoạt động thanh toán quốc tế. Tính chính xác này không cho phép ngân hàng được
sai sót trong khi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ, nó đòi hỏi sự tập trung cao độ,
phát hiện và xử lý kịp thời những sai làm có thể dẫn đến rủi ro. Hoạt động thanh
toán quốc tế là một hoạt động diễn ra trên một quy mô rộng, liên quan tới nhiều tổ
chức, nhiều đơn vị, nhiều loại mặt hàng với nhiều đặc điểm đa dạng khác nhau.
Việc kiểm soát chứng từ một cách chặt chẽ, chính xác để đảm bảo cho hoạt động
thanh toán quốc tế tránh những sai làm đáng kể, có thể gây thiệt hại cho ngân hàng,
đặc biệt là đối với những lô hàng hoá có quy mô và giá trị lớn. Tính chính xác của
nghiệp vụ thanh toán quốc tế thể hiện ở nhiều mặt về số lượng, chất lượng, về mặt
thời gian, quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán v.v Làm tốt điều đó sẽ tạo ra
được uy tín cho doanh nghiệp, cũng sẽ làm cho khách hàng thêm tin tưởng và tăng
sự thoải mái cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông qua
ngân hàng.
- Tính an toàn: cũng như tính chính xác, tính an toàn cũng là một yêu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status