Tài liệu Đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp ,Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên” - Pdf 10

M ỤC L ỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó không
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong
mọi lĩnh vực hoạt động.
Đối với nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp hình thành và phát triển nhân cách giáo viên mà còn là bộ phận cấu thành hoạt
động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo
viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động dạy và học.
Nếu không có giao tiếp thì không thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và trò vào
việc đạt được mục đích giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo nghề
sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động chuẩn bị cho mình về năng
lực giao tiếp.
8
Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những nơi đào tạo nghề cho
những nhà giáo tương lai phục vụ công tác xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
của xã hội. Hành trang của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên ngoài tư cách, phẩm
chất, đạo đức, nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người còn phải vững mạnh về chuyên
môn và giỏi về nghiệp vụ sư phạm, trong đó có năng lực giao tiếp. Vì vậy, việc rèn
luyện năng lực giao tiếp mà cụ thể là kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh
viên sư phạm là vấn đề thiết yếu.
Khoa Sư phạm Kỹ thuật của Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là nơi đào tạo
đội ngũ giáo viên Kỹ thuật công nghiệp cho các trường THPT. Với đặc điểm công việc
giảng dạy trên đối tượng là những học sinh đang độ tuổi phát triển mạnh về nhận thức
cũng như tâm sinh lý nên kỹ năng giao tiếp lại càng là vấn đề cấp thiết đối với mỗi sinh
viên của khoa. Trên thực tế địa điểm của trường đặt tại vùng nông thôn nên môi trường
giao tiếp của sinh viên trong khoa cũng như trong trường đã bị hạn chế đi rất nhiều,
bên cạnh đó là vấn đề về sự chênh lệch giới, về thái độ giao tiếp của từng sinh viên,…
cũng làm ảnh hưởng không ít đến kỹ năng giao tiếp.

Xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết
tình huống trong giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường
ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp luyện tập giải quyết tình huống giao tiếp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
10
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, thực trạng kỹ năng giao tiếp và giải quyết tình
huống giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP
Kỹ thuật Hưng Yên.
5.3. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ
thuật Hưng Yên
6. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, những tình huống giao tiếp nói chung là vô hạn nên
trong phạm vi đề tài của mình tôi chỉ xây dựng những bài tập tình huống điển hình, phù
hợp với nhu cầu giao tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật cũng như phù hợp với
những kỹ năng thiết yếu trong giao tiếp.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được dùng trong suốt quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài,
từ việc xây dựng đề cương nghiên cứu vấn đề đến việc xác định cơ sở lý luận
của giao tiếp và xây dựng hệ thống bài tập tình huống. Số lượng tài liệu tham
khảo là trên 10 sách và tư liệu có liên quan (xem phần Tài liệu tham khảo)
7.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết

HUỐNG TRONG GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con người.
Nên khái niệm giao tiếp được giải thích cũng rất đa dạng và có nhiều bàn cãi trong lĩnh
vực này.
nhận thông tin trao đổi giữa người với người.
T.Chuc Com (Mỹ): Giao tiếp là sự tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách dẫn
đến việc hình thành những ý nghĩa biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động.
Quan niệm này cụ thể hơn, đề cập đến các yếu tố tham gia trong giao tiếp nhưng chưa
nêu được bản chất của giao tiếp.
T.Stéc Sen (Pháp) đặc biệt chú ý đến sự thay đổi ý nghĩa, tình cảm và xúc cảm
giữa con người với con người và khi đó ông coi sự trao đổi này là quá trình hai mặt
của sự thông báo thiết lập, sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
13
L.X. Vưgôtxki (nhà tâm lý học Liên Xô) cho rằng: Giao tiếp xem như là sự
thông báo hoặc quan hệ qua lại thuần tuý giữa con người, như là sự trao đổi quan điểm
và xúc cảm (L.X.Vưgôtxki).
Ngày nay, cùng với việc xây dựng một cách tích cực và khoa học hệ phương
pháp nghiên cứu giao tiếp thì bản chất, hiện tượng giao tiếp cũng được lý giải ngày
càng đầy đủ và rõ ràng. Ở một khái niệm chung nhất chúng ta có thể hiểu: Giao tiếp là
sự tác động qua lại giữa con người với con người, mà trong quá trình của nó nảy sinh
sự tiếp xúc tâm lý, được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự ảnh hưởng lẫn nhau, sự
rung cảm lẫn nhau, sự hiểu biết lẫn nhau, và cuối cùng là những quan hệ qua lại giữa
con người với con người được thực hiện, được thể hiện và được hình thành.
1.1.2. Vai trò của giao tiếp
Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong khoa
học và cuộc sống.
Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc lập, không
phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người không phải là

trong đó. Điều quan trọng không phải là bản thân các kiến thức được truyền đạt lại mà
là thái độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều đó giải thích tại sao lại có sự lựa chọn
thiên lệch đối với một số nghề nghiệp, sách báo phổ biến, khoa học, tác phẩm nghệ
thuật nào đó – Do ảnh hưởng của chúng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là
“mốt” trong nhận thức thẩm mỹ. Và trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi
cho nhau các kinh nghiệm riêng về cuộc sống và lao động, tác động vào ý chí và tình
cảm của nhau nhằm mục đích tạo nên sự thống nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề
xã hội một cách có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một nhân
cách qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực của mình
15
trong sự thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ
lẫn nhau, lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cô lập. Đặc biệt qua quá trình giao
tiếp, con người có được ấn tượng mới và thông tin mới, truyền thụ cho nhau những
kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh
thần của mỗi cá nhân.
1.1.3. Chức năng của giao tiếp
1.1.3.1. Chức năng xã hội
Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức năng
thông tin của giao tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thông
(trao đổi thông tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp, con người trao đổi cho nhau những
thông tin nhất định. Những thông tin này sẽ có ý nghĩa về nhiều mặt như kiến thức, tâm
lý, cảm xúc. Sự thiếu thông tin sẽ làm cho con người cảm thấy lạc lõng và cô đơn, mất
đi tính cộng đồng vốn có.
Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức nhất định.
Đó có thể là gia đình,lớp học, trường học, công ty,… Và trong một tổ chức, một công
việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện. Để có thể hoàn thành công
việc một cách tốt đẹp, những bộ phận, những con người này phải thống nhất với nhau,
tức là phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để
trao đổi, bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy

đồng cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình.
Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được
các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên
tắc ứng xử: Chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu; cái gì đẹp, cái gì không đẹp; cái gì
nên làm, cái gì cần làm, cái gì không được làm và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động
cho phù hợp. Những phẩm chất như khiêm tốn hay tự phụ, lễ phép hay hỗn láo, ý thức
17
nghĩa vụ, tôn trọng hay không tôn trọng người khác,… Đó chính là quá trình hình
thành, phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi chúng ta.
Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của mỗi
chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ các chức năng
này thì điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động, mà
còn để lại những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lý nhân cách của mỗi chúng ta.
1.2. Các phương tiện giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp
khác nhau. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện
thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao
tiếp.
Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng nhưng chúng ta có thể chia
chúng thành hai nhóm chính: Ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao
tiếp phi ngôn ngữ ít khi tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối
quan hệ tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn
trong các mối quan hệ ít nhiều có tính chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn
ngữ.
1.2.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con
người có thể truyền đi bất cứ một thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả
sự vật… Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây:
- Nội dung ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò của ý cá

19
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói
vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa nói vừa vuốt ve, âu yếm,… Thường điệu
bộ phụ hoạ theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ
khi nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hoá. Những cử chỉ, điệu bộ
tự nhiên là đáng yêu nhất, đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này
hay người khác.
1.2.2. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp, chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ
nghe qua lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ
chỉ chiếm từ 30% - 40% , phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc giao tiếp
không lời qua vẻ mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu
phương tiện phi ngôn ngữ là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn
trong giao tiếp.
- Nét mặt:
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình
nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng,
buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta
biết ít nhiều về cá tính con ngươi. Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt
khoát, trực tính; người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì hoà nhã, thân mật, biết
vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp.
Nhướn mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn lặp lại
thông tin. Đôi khi nó chỉ sự không tin tưởng mấy. Nhăn trán, cau mày là dấu hiệu phổ
biến của sự lúng túng và sự lo lắng, và đôi khi là biểu hiện của sự giận dữ.
- Nụ cười:
Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của
mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn,
hồn nhiên, đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác, có cái cười đồng tình,
20
thông cảm nhưng cũng có cái cười chế giễu, cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười biểu hiện

với vai trò, vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức, nó bộc lộ
cương vị xã hội mà cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả
ra phía sau là tư thế của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về phía trước,
tựa hồ lắng nghe là tư thế của người cấp dưới.
Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải
mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp
cận gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hoà hợp.
- Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay thấp,
mập hay ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay dày…), sắc da (trắng hay đen, xanh
xao, vàng vọt hay “ngăm ngăm” ), và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu,
trang điểm, trang sức, trang phục…
Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn ông cao
ráo, có vẻ khoẻ mạnh, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay gầy đét; một người
“tốt tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đầu tiên. Cách trang sức, cách
ăn mặc cũng nói lên nhiều cá tính, văn hoá, nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi của một cá
nhân.
- Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay,… Những phương
tiện này gọi là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng.
Chẳng hạn, không phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta người lớn
xoa đầu trẻ con chứ không được phép ngược lại.
22
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau:
Bắt tay mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin;
còn cái bắt tay ẻo lả, ướt át thuộc về con ngươi yếu đuối và đáng ngờ.
1.3. Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản
Giao tiếp vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Muốn thành công trong
giao tiếp, chúng ta không chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực này
mà còn phải biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn hoạt động giao tiếp của

kiên nhẫn với thái độ tự tin để duy trì sự giao lưu, tiếp xúc diễn ra một cách thuận lợi.
Đôi lúc có thể kiểm tra ngược lại hoặc để tâm xem lại những điều mình đã nắm được,
ta có thể xen kẽ bằng những câu nhắc lại những gợi ý khéo như: “Theo anh nên hiểu
vấn đề ấy như thế nào?” hoặc gợi mở thêm sự giao lưu được tiếp tục kiểu như “Hình
như anh cũng cảm thấy khó xử…” thậm chí có thể tỏ thái độ trung lập với những gợi ý
vô thưởng vô phạt như “Tôi hiểu anh trong trường hợp này…”. Tác dụng của những
câu đưa đẩy ấy sẽ duy trì được sự giao lưu, tiếp xúc và nếu có dụng ý ta sẽ gián tiếp
hiểu được thái độ đích thực của đối tượng giao tiếp.
1.3.1.2. Những trở ngại trong việc lắng nghe
Có nhiều trở ngại khiến cho chất lượng lắng nghe người khác nói không phải
lúc nào cũng như nhau, do nhiều nguyên nhân rất dễ sa vào tình trạng chất lượng kém
24
với các mức độ khác nhau như: Do không tập trung chú ý nên chẳng nắm được nội
dung, nghe lõm bõm, chỉ thông hiểu một phần, nghe nhưng nắm thông tin không chính
xác, nghe rồi nhưng không có chủ định và quên mất thông tin,….
Trước hết phải nói đến trở ngại về mặt tâm lý – Ví dụ như tốc độ suy nghĩ,
chúng ta có thể nghe với tốc độ nhanh nhưng người nói lại rề rà, quá chậm. Do vậy có
những khoảng trống, khiến ta dễ liên tưởng, dễ suy nghĩ lan man về các vấn đề khác.
Hơn thế nữa, trong trường hợp tâm trạng chúng ta xao động, ta mải chú ý vấn đề khác,
nếu người nói lại không “tâm lý” dễ dẫn ta đến trạng thái suy nghĩ lan man. Có thể xem
trở ngại tâm lý là trở ngại quan trọng nhất, làm giảm hiệu quả của sự lắng nghe.
Cùng với tốc độ suy nghĩ, việc phân tán chú ý còn do nội dung thông tin quá
khó, ta không thể hiểu rõ và cũng không thể không nắm bắt được thực chất của thông
tin, cảm thấy căng thẳng do vậy không tập trung được chú ý.
Cũng có thể do thiếu kiến thức, đôi khi trong trao đổi, một bên cứ nói và một
bên cứ lảng đi, không chịu “nghe”. Như vậy là trong giao tiếp, sự hiểu biết về đối
tượng: Cá tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm xử thế,…thì chắc chắn sẽ gặp ít trở ngại
hơn.
Về mặt cá tính, một số người có tính thiếu kiên nhẫn trong giao tiếp – Thái độ
này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giao lưu, tiếp xúc. Với tâm trạng như vậy,

trực tiếp thường để lộ mục đích tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên.
- Câu hỏi gián tiếp:
Tức hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình cần tìm hiểu. Loại câu hỏi
này thường dùng để khai thác những yếu tố tế nhị mà không thể hỏi trực tiếp.
- Câu hỏi gợi mở:
Là loại câu hỏi mà không thể trả lời có hoặc không được, chúng đòi hỏi phải có
lời giải thích tại sao. Nhờ câu hỏi này mà chúng ta bước vào một giai đoạn mới của
26
cuộc đàm phán độc thoại chuyển thành đối thoại. Loại câu hỏi này làm dễ dàng cho
người đối thoại. Mục đích của loại câu hỏi này chủ yếu là thu thập thông tin sâu hơn
mà câu hỏi hẹp không làm được.
- Câu hỏi để suy nghĩ:
Mục đích của câu hỏi này nhằm xây dựng bầu không khí thân thiện, hiểu biết
lẫn nhau. Chúng đặc biệt có lợi khi nhắc lại một phần các ý kiến đã phát biểu. Câu hỏi
này sẽ tạo điều kiện cho đối tác cải chính, bổ sung vấn đề đã được trình bày.
1.3.3. Kỹ năng thuyết phục
Để giải quyết tốt một công việc nào đó, chúng ta thường cần sự giúp đỡ, hợp tác
của người khác. Điều này đòi hỏi giữa chúng ta và họ phải có sự thống nhất về quan
điểm, lập trường, về cách giải quyết công việc. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thường
gặp trường hợp, trong đó người khác không cùng chung ý kiến, quan điểm với chúng
ta. Trong trường hợp này, việc chúng ta có đạt được mục đích hay không phụ thuộc
vào khả năng thuyết phục của chúng ta. Thuyết phục chính là đưa ra tình tiết, sự kiện,
phân tích, giải thích làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, mà làm theo.
1.3.3.1. Những điểm cần chú ý khi thuyết phục
Thuyết phục người khác là một công việc không hề đơn giản, bởi một lẽ thường
tình là bất kỳ ai, khi đã có ý kiến về một vấn đề nào đó, cũng có niềm tin nhất định vào
mình và không muốn tiếp thu ý kiến của người khác. Hơn nữa không phải ai cũng biết
cách thuyết phục người khác. Để thuyết phục có hiệu quả chúng ta cần chú ý một số
điểm sau đây:
Bầu không khí bình đẳng là điều kiện đầu tiên để có thể thành công trong thuyết

1.3.4. Kỹ năng thuyết trình
Trong cuộc sống, có những khi đối tượng chúng ta cần trình bày quan điểm, suy
nghĩ về vấn đề nào đó, không chỉ là một hay hai người, mà có thể là mười người, hai
28
mươi người, một trăm người, hay hơn thế nữa. Đó chính là lúc chúng ta thực hiện một
bài thuyết trình. Thuyết trình hay còn gọi là diễn thuyết, là nói chuyện trước nhiều
người về một vấn đề nào đó một cách có hệ thống.
1.3.4.1. Các bước thuyết trình
Một bài thuyết trình thành công bao giờ cũng đi qua ba bước: Chuẩn bị thuyết
trình, tiến hành thuyết trình và kết thúc thuyết trình.
- Chuẩn bị thuyết trình
Bất kỳ một nhà diễn thuyết chuyên nghiệp nào cũng có lúc lúng túng, e ngại,
căng thẳng. Để có thể đường hoàng, tự tin, chúng ta và cả những nhà diễn thuyết
chuyên nghiệp cũng đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho buổi nói chuyện của mình.
Khi được mời thuyết trình về một vấn đề nào đó, chúng ta cần cân nhắc hai vấn đề. Đó
là: Chúng ta có am hiểu vấn đề, có đủ thông tin để trình bày hay không? Con người và
cương vị của người nói có được người nghe chấp thuận hay không? Nói cách khác, tầm
quan trọng của vấn đề phải ngang tầm với người diễn thuyết, nếu không người nghe sẽ
thiếu tin tưởng.
Bài nói chuyện phải được xây dựng xung quanh người nghe, lấy người nghe làm
trung tâm. Cùng một vấn đề nhưng nói cho những đối tượng khác nhau thì cách xây
dựng bài nói cũng khác nhau. Chẳng hạn, cùng một vấn đề thời sự nhưng nói cho sinh
viên khác với nói cho giáo viên. Vì vậy, người thuyết trình cần tìm hiểu người nghe là
ai, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, tín ngưỡng…để chuẩn bị bài nói chuyện cho phù
hợp.
Bài diễn thuyết cần được chuẩn bị một cách chu đáo. Người diễn thuyết có thể
thảo sẵn nội dung diễn thuyết ra giấy hoặc chí ít cũng phải lập một đề cương chi tiết
các ý cần phải trình bày và những dẫn chứng, những số liệu để minh hoạ. Không nên
quá tin tưởng vào trí nhớ. Nếu lần đầu diễn thuyết thì cần tập dượt trước . Sự chuẩn bị
tốt luôn làm người diễn thuyết tự tin trong quá trình nói chuyện.

này nên ngắn gọn, không rườm rà, dài dòng.
Khi nói, giọng nói cần to, rõ ràng đủ cho người ngồi xa nhất cũng có thể nghe
thấy. Thêm vào đó, cần thay đổi tốc độ nói, nhịp độ nói: Khi lên, khi xuống, khi trầm,
khi bổng, khi nhanh, khi chậm, khi lướt qua, khi nhấn mạnh, tuỳ thuộc vào nội dung
trình bày. Trong quá trình trình bày, thường xuyên đưa mắt xuống người nghe, bao
quát tất cả những người có mặt trong phòng, đừng để ai đó có cảm giác bị “bỏ rơi”.
Ngoài ánh mắt, người thuyết trình cần chú ý sử dụng cả phương tiện phi ngôn
ngữ khác như nét mặt, cử chỉ, động tác. Tuy nhiên, cần sử dụng chúng một cách tự
nhiên, hợp lý. Người diễn thuyết có thể đi lại trong khi nói chuyện, song không nên rời
khỏi tầm nhìn của một nhóm người nghe nào đó quá lâu. Chẳng hạn, trong khi giảng
bài, có những giáo viên đi xuống cuối lớp và dừng lại ở đó trong một khoảng thời gian.
Trong trường hợp này, những học sinh ngồi ở dãy bàn đầu dễ phân tán chú ý và sẽ khó
tiếp thu bài giảng hơn.
1.3.5. Kỹ năng đọc và tóm tắt văn bản
1.3.5.1. Kỹ năng đọc
Đọc là hoạt động nhận thức có từ lâu đời, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước
công nguyên. Đọc là một kỹ năng. Để đọc có hiệu quả, chúng ta cần được dạy cách đọc
và không ngừng rèn luyện để biến kỹ năng thành kỹ xảo. Để đọc có hiệu quả, cần chú ý
một vài khía cạnh sau:
Khi đọc một đoạn văn bản, chúng ta cần nắm được thông tin chứa đựng trong
đó. Trở ngại lớn nhất cho sự lĩnh hội là khi đọc, người đọc không được tiếp xúc trực
tiếp với người viết. Vì vậy, điểu cốt lõi khi đọc là người đọc phải thực hiện một cuộc
đối thoại trong tưởng tượng với người viết, tức là phải tập trung tư tưởng cao độ đặt
câu hỏi, phân tích, và tự tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó. Đó là đọc tích cực.
Tốc độ đọc cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đọc. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy, tốc độ đọc trung bình vào khoảng 250 từ/1 phút. Bí quyết để đọc có hiệu quả
31
là chọn tốc độ đọc phù hợp với tài liệu. Không nên đọc nhanh với bất kỳ tài liệu nào,
cũng đừng bận tâm đọc kỹ mọi thứ. Để có thể quyết định có nên đọc một tài liệu nào
đó hay không, hoặc đọc phần nào, tốc độ nào, người đọc có thể sử dụng phương pháp


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status