Luận văn: Xây dựng mô hình lợi nhuận tại công ty Maxvitra - Pdf 11

Luận văn
Xây dựng mô hình lợi
nhuận tại công ty Maxvitra
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết mục đích cơ bản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là
tạo ra lợi nhuận và mục đích cuối cùng cũng là lợi nhuận. Ngày nay, doanh nghiệp
hoàn toàn có thể tiếp cận và khai thác các tính năng nổi trội trong “nền kinh tế
internet” để tối đa hóa lợi nhuận.
Trong bất cứ một hình thức tổ chức kinh tế nào , trong hình thái kinh tế xã
hội nào thì các doanh nghiệp cũng luôn quan tâm tới vấn đề năng suất -chất lượng -
hiệu quả đó chính là những tiêu chí hàng đầu trong quá trình sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Nó chính là thước đo trình độ phát triển của doanh nghiệp
nói riêng và của xã hội nói chung . Song tất cả đều thực hiện mục tiêu sâu xa của
doanh nghiệp đó là thu lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận . Lợi nhuận là mục đích
của sản xuất kinh doanh , là động cơ chủ yếu của các nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận là
tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
có thực sự hiệu quả hay không.
Một nền kinh tế vững mạnh là một nền kinh tế trong đó các tế bào của nó là
các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Những năm trước đây nền kinh tế của nước
ta còn ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các đơn vị sản xuất đã không chủ
động khai thác hết khả năng và tiềm tàng sẵn có của mình do hình thành thói quen
tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào sự bao cấp của nhà nước cho nên mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh không những không mang lại hiệu quả mà còn làm cho nền kinh tế
ngày một kém phát triển và tụt hậu rất nhiều so với các nước trên khu vực và trong
thế giới.
Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế
song song tồn tại dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì nền kinh tế của nước ta
mới thực sự khởi sắc. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là có sự cạnh tranh mạnh

doanh của mình.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp được xác định sau
một thời kỳ nhất định được thể hiện bằng khoản tiền thu về gọi chung là doanh thu.
Khoản doanh thu có được này trước hết phải bù đắp được các chi phí sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
của đơn vị mình. Những chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là :
- Các khoản chi cho nghĩa vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp: thuế, Các
khoản nộp cho ngân sách nhà nước.
- Các khoản chi cho vật chất đã bị tiêu hao trong quá trình sản xuất.
- Các khoản chi cho người lao động.
Doanh thu có được sau khi đã bù đắp hết khoản chi phí nói trên thì phần doanh
thu giá trị còn lại chính là phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là chênh lệch giữa doanh thu
của hoạt kinh doanh trừ đi chi phí kinh doanh.
- Lợi nhuận của hoạt động khác: gồm lợi nhuận từ hoạt động tài chính, lợi
nhuận từ hoạt động bất thường
1.1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận
Lợi nhuận là mục đích của sản xuất kinh doanh, là động cơ chủ yếu của các
nhà đầu tư vì vậy lợi nhuận được coi là một tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh không kể trong bất cứ lĩnh vực nào, hay thành phần kinh tế nào, khi tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều có chung một mục đích là tìm kiếm lợi
nhuận. Chỉ khi nào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp
mới thu được lợi nhuận . Như vậy lợi nhuận phản ánh hiệu quả và mục đích hoạt
động của mỗi doanh nghiệp .Từ đó không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận không cao
cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả không đạt được
mục tiêu kinh doanh của mình.
Trên phương diện tài chính thì lợi nhuận là một nguồn tài chính bù đắp cho
những thiệt hại , rủi ro trong kinh doanh. Nó là nguồn tài chính bên trong vững

nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng , nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có
sự bù trừ lẫn nhau. Do đó khi xem xét kết quả kinh doanh ta không chỉ đơn thuần
sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận.
- Lợi nhuận doanh nghiệp qua mỗi kỳ là khác nhau do điều kiện sản xuất
kinh doanh , điều kiện vận chuyển, điều kiện thị trường tiêu thụ.
- Lợi nhuận ở mỗi doanh nghiệp cùng loại là khác nhau bởi mỗi doanh
nghiệp có quy mô sản xuất khác nhau ,thực tế có những doanh nghiệp lớn nếu công
tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn so với những
doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng có chất lượng quản lý tốt.
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá mức sinh lời của doanh nghiệp khác
Lâu nay khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta hay
sử dụng chỉ tiêu ROA(return on assets) và chỉ tiêu ROE( return on equity), không
thể phủ nhận tính hữu ích của hai chỉ tiêu này bên cạnh đó thì hai chỉ tiêu này còn
có những mặt hạn chế nhất định.
Chỉ tiêu ROA
Khi tính toán chỉ tiêu ROA, thì thông thường các nhà phân tích sử dụng một
trong hai nguồn số liệu lấy từ báo cáo thu nhập của doanh nghiệp, đó là: Lợi nhuận
hoạt động trước thuế và lãi vay (EBIT) hoặc Lợi nhuận sau thuế, cụ thể:
ROA =
EBIT
Tổng tài sản bình quân
Hoặc:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân

Trong hai cách tính này, ta thấy cách tính ROA theo EBIT thì sẽ phản ánh tốt

doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nên có thể trình bày một chỉ tiêu khác để có thể
nhìn nhận một cách toàn diện hơn năng lực sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu ROC (Return on Capital) cũng được nhiều tài liệu đề cập đến, tuy nhiên, ở
đây xin trình bày một cách tính ROC khá phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay.
ROC =
EBIT

V
ốn kinh doanh b
ình quân

Trong đó:
 Vốn kinh doanh bình quân = Vốn vay bình quân + Vốn chủ sở hữu bình quân
 Vốn vay bình quân = Tổng số tiền lãi vay trong kỳ/Lãi suất bình quân của
khoản tiền vay trong kỳ.
 Vốn chủ sở hữu bình quân: xác định dựa trên những thời điểm tăng/giảm vốn
chủ sở hữu trong kỳ.
Với việc sử dụng chỉ tiêu ROC ở trên, ta có thể thu được kết quả phản ánh
hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tử số thể hiện kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà không phân biệt đối tượng nào được hưởng, mẫu số thể hiện tổng
nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ, không phân biệt vốn vay hay vốn
chủ sở hữu.
Như vậy để tính toán được một trong các chỉ tiêu ở trên thì ta cần phải tính
được lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế
1.2.Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp
Để tăng lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh thu, đồng thời cắt giảm chi
phí họat động. Doanh nghiệp có thể cắt giảm một loạt các chi phí như: chi phí
nghiên cứu và phát triển sản phẩm; chi phí quảng cáo; chi phí duy tu, bảo dưỡng
thiết bị…. Song, các chi phí này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển

động trên nền tảng của internet đã đa dạng hóa phương thức hướng đến các mục
tiêu lợi nhuân. Internet đã tạo ra cái chợ vô hình với không gian quảng cáo và cơ
hội mua bán thuận tiện, nhanh hơn rất nhiều so với kiểu mua bán, giao thương
truyền thống. Việc tham gia vào các họat động thương mại điện tử cho phép doanh
nghiệp xây dựng hình ảnh công ty, tiếp cận lượng khách hàng vô tận, nhất là các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, mở rộng thị trường mà không cần
tăng quy mô kinh doanh. Môt trong nhưng ưu việt của thương mại điện tử còn là tối
ưu hóa chi phí quản lý, kinh doanh. Kết nối đúng nhu cầu người mua và người bán,
bỏ qua khâu trung gian sẽ giúp doanh nghiệp có giá cả cạnh tranh để duy trì và mở
rộng khách hàng của mình.
Ngoài ra thì doanh nghiệp còn có thể áp dụng thêm một số biện pháp sau:
1.2.1. Hạ giá thành sản phẩm
Hạ thấp giá thành sản phẩm là phương hướng cơ bản để tăng thêm lợi nhuận
cho các doanh nghiệp .Hạ thấp giá thành sản phẩm thực chất là giảm chi phí sản
xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, tức là tiết kiệm về chi phí lao công, chi phí quản
lý. Điều này có ý nghĩa kinh tế to lớn không riêng đối với doanh nghiệp mà còn có
ý nghĩa trong phạm vi toàn xã hội.
Hạ thấp giá thành sản phẩm là tăng lợi nhuận mà không tăng chi phí , do đó
không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được vốn để mở rộng được quy
mô sản xuất góp phần tiết kiệm chi phí cho toàn xã hội . Để hạ thấp giá thành sản
phẩm góp phần gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp nên
làm những việc sau đây: Phấn đấu tăng năng suất lao động :
Tăng năng suất lao động là tổng hợp nhiều biện pháp để tăng năng lực sản
xuất của người lao động, sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong cùng một đơn vị
tăng lên,hoặc giảm bớt thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Muốn vậy thì doanh nghiệp nên:
- Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ,phục vụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa

cần có một sự đầu tư lớn cả về vật chất cũng như thời gian.
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh không phải là một hoạt
động đơn thuần về mặt thu chi tài chính mà thực chất là một nghệ thuật sử dụng
vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh . Sử dụng vốn có hiệu quả tức là
lợi nhuận thu về trên một đồng vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều .
Do đó mà việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp cơ bản được các doanh
nghiệp quan tâm.
Vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm có vốn cố định và vốn
lưu động:
Vốn cố định
Vốn cố định của các doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư
nói riêng và vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ có ảnh hưởng lớn trực tiếp
quyết định đến trình độ trang máy móc thiết bị kỹ thuật , công nghệ và năng lực của
sản xuất kinh doanh . Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định được coi là
trọng điểm của công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động
Vốn lưu động là số vốn ứng trước để đầu tư mua máy móc thiết bị , nó gồm:
vật tư, thành phẩm, tiền vốn. Tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng cao
càng chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển
của vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức công việc: dự trữ sản
xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp là hợp lý hay không hợp lý , các khoản phí tổn
trong quá trình sản xuất kinh doanh tiết kiệm hay không tiết kiệm và có hiệu quả .
Vốn lưu động góp phần hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp còn có một số các thủ thuật làm tăng lợi nhuận đó là:
Thứ nhất, DN có thể tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc thực hiện
giao dịch vào cuối kỳ kế toán với khách hàng mà không yêu cầu khách hàng thanh
toán ngay (do được chiếm dụng vốn nên họ sẵn sàng chấp nhận).
Giao dịch này được thừa nhận như là bán hàng trả chậm, chứ không phải là
bán hàng qua đại lý và nghiễm nhiên làm tăng doanh số và lợi nhuận của DN trong

Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá
kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này
hiện tại chủ yếu được xác định bằng phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trên
cơ sở kế toán dồn tích. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện của lý luận kế toán thì
lợi nhuận còn có thể được xác định bằng cách so sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ
với vốn chủ sở hữu đầu kỳ.
Lợi nhuận có thể được xác định theo một trong hai phương pháp sau: phương
pháp so sánh vốn chủ sở hữu và phương pháp so sánh doanh thu với chi phí.
1.3.1.Phương pháp so sánh vốn chủ sở hữu.
Theo phương pháp này, lợi nhuận một kỳ kinh doanh được xác định bằng cách so
sánh giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ và cốn chủ sở hữu đầu kỳ. Công thức xác định
lợi nhuận theo phương pháp này như sau:
lợi nhuận = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ (1).
Vốn chủ sở hữu được xác định bằng phần chênh lệch giữa tổng tài sản và nợ phải
trả. Cuối kỳ, trên cơ sở kết quả của kiểm kê, đánh giá tổng giá trị của tài sản và nợ
phải trả theo giá thị trường. Trong trường hợp vốn chủ sở hữu tăng lên hoặc giảm
xuống do các nghiệp vụ không liên quan đến lợi nhuận trong kỳ thì cần phải loại
trừ ra khỏi vốn chủ sở hữu cuối kỳ. Một số nghiệp vụ thuộc loại này như bổ sung
vốn góp từ chủ sở hữu, rút vốn hoặc phân phối lợi nhuận cho chủ sở hữu…Trong
những tình huống này, lợi nhuận được xác định theo công thức:
Lợi nhuận trong kỳ = Vốn chủ sở hữu cuối kỳ - Vốn chủ sở hữu đầu kỳ - Vốn chủ sở
hữu trong kỳ tăng lên không do tăng lợi nhuận + Vốn chủ sở hữu trong kỳ giảm
xuống không do phát sinh khoản lỗ (2)
Phương pháp này có những đặc điểm sau: Một là, toàn bộ tài sản, nợ phải trả được
xác định trên cơ sở giá hợp lý, không căn cứ vào giá vốn thực tế; Hai là, lợi nhuận
được xác định theo phương pháp này bao gồm cả lợi nhuận được thực hiện và lợi
nhuận chưa được thực hiện của kế toán dồn tích; Ba là, phù hợp với quan điểm của
các nhà kinh tế về việc xác định lợi nhuận.
1.3.2.Phương pháp so sánh giữa doanh thu và chi phí
Theo phương pháp này, lợi nhuận trong kỳ được xác định bằmg cách so sánh giữa

bấy nhiêu lần. Số lượng sản phẩm sản xuất phản ánh mặt chủ quan của doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như tăng số
lượng sản xuất sản phẩm, dự trữ hợp lý đầu kỳ và cuối kỳ tiêu thụ sản phẩm ,mở
rộng thị trường tiêu thụ.
Chất lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và chất lượng sản
phẩm nói riêng có tính chất quyết định đến vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong
cơ chế hiện nay .Nếu một doanh nghiệp không ngừng chú ý đến việc nâng cao chất
lượng sản phẩm thì doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng chiếm lĩnh được thị trường và theo
đó uy tín của doanh nghiệp cũng được nâng lên. Trong điều kiện nền kinh tế có sự
cạnh tranh mạnh mẽ thì chất lượng sản phẩm, uy tín doanh nghiệp chính là một
trong những điều kiện cần thiết cho sự tốn tại và phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Mặt khác trong điều kiện các yếu tố sản xuất không đổi, việc đảm bảo và
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm là cách để doanh nghiệp tiêu thụ được
lượng lớn sản phẩm sản xuất ra tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Kết cấu mặt hàng.
Mỗi một loại sản phẩm tiêu thụ có một loại giá bán khác nhau, cao hay thấp
tuỳ thuộc vào giá trị của sản phẩm đó. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ trọng sản xuất và
tiêu thụ mặt hàng có giá bán cao và giảm tỷ trọng sản xuất mặt hàng có giá bán
thấp thì khi đó tổng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ không thay đổi nhưng tổng
doanh thu xẽ tăng lên và ngược lại.
Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến
doanh thu , song tình hình hiện nay chủ yếu do sự biến động của thị trường , trong
điều kiện này doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, để làm được điều trên thì đòi hỏi
những người làm công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp phải luôn nhạy bén
với xu hướng thị trường ,phải nghiên cứu phải điều tra và nắm bắt đấy đủ thông tin
cũng như nhu cầu thị trường.

xuất ,hạ giá thành nâng cao chất lượng của sản phẩm.
Tổ chức quản lý sản xuất, quản lý tài chính doanh nghiệp
Thực tế cho thấy tổ chức quản lý sản xuất , quản lý tài chính một cách khoa
học hợp lý có tác động tới việc tiết kiệm chi phí sản xuất và việc hạ giá thành sản
phẩm. Tổ chức lao động hợp lý ,khoa học sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất được
cân đối, liên tục ,hạn chế được những thiệt hại ,tận dụng thời gian và công suất máy
móc ,sẽ tạo điều kiện tăng năng suất lao động.
Vai trò quản lý tài chính được phát huy đầy đủ sẽ ảnh hưởng lớn đến khả
năng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Nó giúp doanh nghiệp tận dụng
được cơ hội kinh doanh có hiệu quả . Việc phân phối, sử dụng vốn hợp lý ,tăng
cường kiểm tra giám sát sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và có hiệu quả cao ,bảo
toàn và phát triển được vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.3. Nhân tố ảnh hưởng về điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp.
Điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp khó
khăn hay thuận lợi cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiết kiệm chi phí và hạ giá
thành sản phẩm.
Ngoài ra chi phí tiêu thụ( chi phí bán hàng) là khoản chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để đảm bảo quá trình tiêu thụ sản phẩm được thực hiện . Các
khoản chi phí này được phát sinh trong quá trình tiêu thụ: trả lương nhân viên bán
hàng , vận chuyển bảo quản và chi phí cho công tác điều tra nghiên cứu thị trường
,giới thiệu quảng cáo sản phẩm. Chi phí tiêu thụ còn phục thuộc còn phục thuộc
vào điều kiện tự nhiên và xã hội của từng địa phương . Nếu các khoản chi phí này
được tiết kiệm sẽ góp phần vào việc hạ chi phí , giảm giá thành từ đó tăng thêm lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng phải tiến hành giảm chi phí
tiêu thụ một cách hợp lý để không ảnh hưởng tới đời sống của những người liên
quan và ảnh hưởng xấu đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Kết: lợi nhuận là một chỉ tiêu hữu hiệu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nó có vai trò quan trọng đối với hoạt động của doanh
nghiệp không những thế nó còn quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Do

vụ thi công các công trình giao thông như: máy ủi, máy san gặt ,máy rải nhựa
đường, máy rải đá,xe lu… tại Việt Nam. Những năm đầu hoạt động của công ty là
những năm đổi mới về máy móc thiết bị phục vụ của ngành giao thông vận tải ,
cộng thêm nguồn hàng cung cấp dồi dào từ phía Nhật Bản nên hoạt động kinh
doanh của công ty khá suôn sẻ. Từ những kết quả kinh doanh thu được công ty đã
dần khẳng định lại vị trí của mình một công ty hàng đầu về cung cấp thiết bị thi
công công trình giao thông vận tải có uy tín chất lượng sản phẩm đảm bảo, có
chính sách bảo hành tốt.
Tới năm 1996 do Nhà nước ban hành chính sách hạn chế xuất nhập khẩu
máy móc thiết bị , đồng thời nhu cầu về thiết bị đã bị bão hoà do đã xuất hiện rất
nhiều đối thủ cạnh tranh . Vì vậy công ty đã dần bổ sung thêm vốn và mở thêm một
số lĩnh vực mới đó là nhận xây dựng và thi công các công trình giao thông vận tải ,
cho thuê thiết bị thi công giao thông vận tải và láp ráp linh kiện điện tử.
Qua nhiều năm hoạt động công ty đã mang lại hiệu quả kinh tế cao , tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước và mang lại lợi nhuận cho các bên. Tính đến hết
ngày 31-12-2008 giá trị tài sản ròng của công ty là 50.675.421.081 VND trong đó
vốn cố định là 28.108.472.316 VND và vốn lưu động là 22.566.948.765 VND và
quyền sử dụng đất , sử dụng mặt bằng nhà xưởng rộng 1768m2.
Tháng 7 năm 2002 do có nhiều sự thay đổi nên công ty liên doanh Xây dựng
và thương mại Việt Nhật được chuyển thành công ty Xây Dựng và thương mại Việt
Nhật tên giao dịch vẫn là maxvitra co. Công ty chính thức trở thành doanh nghiệp
nhà nước từ tháng 7-2002, và là công ty thành viên thuộc trực thuộc tổng công ty
Thương Mại và Xây Dựng –Vietracimex. Công ty xây dựng và thương mại Việt
Nhật hoạt động với một tư cách pháp nhân đầy đủ, hạch toán kế toán độc lập , có
con dấu riêng và chịu sự quản lý của bộ Giao Thông Vận Tải.
Tính đến nay công ty có các đơn vị trực thuộc:
-Xí nghiệp láp ráp các linh kiện điện tử
-Xưởng sữa chữa tân trang thiết bị máy móc
-Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông vận tải
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý, kế toán, tổ chức sản xuất của công ty.

Phòng tài chính kế toán:
-Quản lý toàn bộ tài sản, các loại vốn quỹ của công ty, bảo toàn vốn và phát
triển có hiệu quả.
-Tham gia kiểm tra xét duyệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
-Tham gia thanh quyết toán hợp đồng với khách hàng.
-Thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước theo luật thuế và biểu thuế
.Phòng kinh doanh:
-Xây dựng kế hoạch dài hạn và ngắn hạn về sản xuất, kỹ thuật tài chính xuất
nhập khẩu theo mục tiêu kinh doanh của công ty.
Phòng
ban liên
quan
Xưởng sửa
chữa tân trang
MMTB
XN Xây
dựng công
trình GT
XN Lắp
ráp linh
kiện ĐT
- Giao kế hoạch sản xuất cho các đơn vị trực thuộc , điều phối hoạt động của
các đơn vị đảm bảo cân đối , đồng bộ và hiệu quả.
- Khai thác nguồn công trình để tham gia nhận đấu thầu xây dựng công trình
giao thông.
- Chỉ đạo điều hành sản xuất, giám sát kỹ thuật sử dụng thiết bị kỹ thuật xây
dựng, thi công công trình.
Văn phòng công ty:
- Tổ chức tiếp nhận, luân chuyển quản lý văn thư giữa các công ty với các cơ
quan nhà nước, các đơn vị trực thuộc và các cơ quan địa phương


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status