Báo cáo "Điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hoà Pháp " - Pdf 11



nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 4/2006 7

ThS. Mai Thanh HiÕu *
ột trong những điểm tương đồng của
pháp luật Việt Nam và Cộng hoà
Pháp về thủ tục giám đốc thẩm hình sự thể
hiện ở quan điểm giám đốc thẩm không phải
là cấp xét xử thứ ba. Điều này được lí giải
bởi Toà giám đốc thẩm của Pháp không xét
xử lại vụ án, không quyết định về tội phạm
cũng như hình phạt, vì đó là nhiệm vụ của
toà án cấp phúc thẩm - cấp xét xử thứ hai,
xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của
bản án, quyết định sơ thẩm. Pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam cũng quy định chế độ hai
cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Đối với
bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực
pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc xử lí vụ án thì được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
(Điều 20 BLTTHS Việt Nam).
Trong tố tụng hình sự Pháp, giám đốc

đốc thẩm trong việc chỉ kiểm tra sai lầm về
áp dụng pháp luật. Điều này không trái với
luật quốc tế. Công ước châu Âu về quyền
con người năm 1950, Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải xét lại ở toà án
cấp trên những bản án, quyết định kết tội của
toà án cấp dưới nhưng không đòi hỏi phải
M

* Giảng viên Khoa luật hình sự
Trường Đại học Luật Hà Nội nghiªn cøu - trao ®æi
8 T¹p chÝ luËt häc sè 4/2006
kiểm tra lại cả về nội dung vụ án và việc áp
dụng luật.
(1)

Thủ tục giám đốc thẩm ở Pháp cũng như
Việt Nam đều nhằm đảm bảo sự áp dụng
thống nhất pháp luật. Kết quả giám đốc thẩm
ở Pháp tạo nên án lệ - nguồn luật quan trọng
trong hệ thống pháp luật Pháp. Ở Việt Nam,
các quyết định giám đốc thẩm có thể là mẫu
mực, là kinh nghiệm được các thẩm phán
tham khảo nhưng không được trích dẫn vào
bản án và không bắt buộc các toà án phải
tuân theo khi xét xử các vụ án tương tự.

cấp dưới của mình gây ra. Luật tố tụng hình
sự Pháp phân biệt đối tượng và chủ thể
kháng nghị giám đốc thẩm theo nội dung
kháng nghị vì lợi ích đương sự hay vì lợi ích
pháp luật. Luật tố tụng hình sự Việt Nam
không phân biệt như vậy.
- Kháng nghị vì lợi ích đương sự
+ Đối tượng của kháng nghị
Đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm vì
lợi ích đương sự là bản án, quyết định tư
pháp của cấp toà án cuối cùng quyết định về
nội dung vụ án.
Đối tượng kháng nghị là bản án, quyết
định tư pháp của toà án xét xử cũng như toà
án điều tra. Những quyết định hành chính
(hành chính - tư pháp) của toà án trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự không được
coi là đối tượng của kháng nghị giám đốc
thẩm vì lợi ích đương sự, ví dụ: Quyết định
về việc bốc thăm hội thẩm hoặc về việc hội
thẩm từ chối tiến hành tố tụng.
Đối tượng kháng nghị còn phải là bản
án, quyết định của cấp toà án cuối cùng
quyết định về nội dung vụ án, bao gồm: 1.
Bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là
chung thẩm; 2. Bản án, quyết định phúc
thẩm. Do đó, bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm không phải là đối tượng của
kháng nghị giám đốc thẩm. Bản án, quyết

thẩm chỉ định để xét xử lại vụ án mới bị
kháng nghị giám đốc thẩm lần nữa.
Không phải mọi bản án, quyết định của
toà án vi phạm pháp luật nghiêm trọng và đã
có hiệu lực pháp luật đều bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm. Trong tố tụng hình
sự Việt Nam, quyết định của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao không thể bị
kháng nghị vì đó là quyết định của cơ quan
có thẩm quyền xét xử cao nhất. Ngoài
trường hợp có tính đương nhiên này, luật tố
tụng hình sự Việt Nam không quy định
những ngoại lệ khác. Trong tố tụng hình sự
Pháp, có những bản án, quyết định không thể
bị kháng nghị như bản án của Toà án công lí
(xem xét trách nhiệm hình sự của các thành
viên Chính phủ) hoặc chỉ có thể bị kháng
nghị trong những điều kiện nhất định như
bản án của toà đại hình tuyên bị cáo vô tội.
Bản án này không bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, trừ trường hợp kháng nghị vì
lợi ích của pháp luật (tránh cho những thẩm
phán khác mắc sai lầm tương tự) và không
gây thiệt hại cho người được tuyên vô tội
(Điều 572 BLTTHS Pháp).
Ngoại lệ của Pháp không phải là duy
nhất. Ở Tây Ban Nha, những bản án về tội vi
cảnh và tiểu hình cũng không bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm.
(2)
nghiªn cøu - trao ®æi
10 T¹p chÝ luËt häc sè 4/2006

đến vụ án và luật sư. Mặt khác, những chủ
thể này đều phải là các bên trong vụ án. Đây
là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc bình đẳng
trước toà án - trọng tài công minh của các
bên trong tố tụng. Án lệ coi những người sau
đây không có quyền kháng nghị vì không có
lợi ích để hành động: Người bị kết án kháng
nghị đòi tăng hình phạt, tăng mức bồi
thường thiệt hại mà toà án đã áp dụng cho
mình, kháng nghị động chạm đến lợi ích của
người đồng phạm khác
(5)
Trong tố tụng
hình sự Việt Nam, người tham gia tố tụng
không có tư cách kháng nghị mà chỉ có
quyền phát hiện những vi phạm pháp luật
trong các bản án, quyết định của toà án đã có
hiệu lực pháp luật và thông báo cho những
người có quyền kháng nghị. Việc thực hiện
quyền phát hiện và thông báo chỉ buộc người
có quyền kháng nghị phải trả lời (bằng văn
bản kháng nghị hoặc văn bản nêu rõ lí do
không kháng nghị). Trong tố tụng hình sự
Pháp, thực hiện quyền kháng nghị hợp lệ tạo
cơ sở cho việc mở thủ tục giám đốc thẩm.

không thay đổi mặc dù bản án tuyên vô tội bị
Toà giám đốc thẩm huỷ bỏ. Tuy nhiên, bản
án kết tội bị huỷ thì người đã bị kết tội sẽ
được hưởng lợi ích do việc huỷ bản án.
Trường hợp này, thực sự không chỉ là kháng
nghị vì lợi ích pháp luật mà đồng thời còn vì
lợi ích đương sự.
Kháng nghị theo yêu cầu của bộ trưởng
Bộ tư pháp có phạm vi đối tượng rộng lớn,
không chỉ nhằm tới những bản án, quyết định
tư pháp đã hay chưa có hiệu lực quyết tụng
mà còn chống lại cả những quyết định hành
chính (hành chính - tư pháp) của toà án trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự như quyết
định về việc rút thăm hội thẩm, quyết định về
việc hội thẩm từ chối tiến hành tố tụng.
2. Căn cứ kháng nghị
Luật tố tụng hình sự Việt Nam và Pháp
đều quy định các trường hợp mở thủ tục
giám đốc thẩm. Điều đó cho thấy giám đốc
thẩm là thủ tục đặc biệt và hạn chế, khác với
phúc thẩm là thủ tục thông thường và mở
rộng do không quy định căn cứ kháng cáo, nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 4/2006
11
kháng nghị phúc thẩm. Như vậy, Việt Nam
và Pháp nằm trong hệ thống các quốc gia

căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm: 1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên toà
phiến diện hoặc không đầy đủ; 2. Kết luận
trong bản án hoặc quyết định không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án; 3.
Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; 4. Có
những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng bộ luật hình sự.
BLTTHS Pháp dành các điều từ 591 đến
600 để quy định căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm với một sự liệt kê chi tiết. Tuy nhiên,
có thể khái quát lại, các trường hợp mở thủ
tục giám đốc thẩm đều có "mẫu số chung" là
"sự vi phạm pháp luật".
Về luật bị vi phạm, một số tác giả chỉ rõ:
Giám đốc thẩm kiểm tra việc áp dụng luật tố
tụng hình sự và luật hình sự.
(7)
Án lệ khẳng
định: Kháng nghị nếu không viện dẫn ra
được văn bản pháp luật bị vi phạm thì bị
tuyên bố là kháng nghị không mục đích.
(8)

Vi phạm luật tố tụng hình sự là những vi
phạm về thẩm quyền, trình tự, thủ tục (thành
phần hội đồng xét xử không đúng luật định,
không có thẩm quyền hoặc lạm quyền, vi
phạm nguyên tắc xét xử công khai, bản án

dụng vẫn đúng, nghĩa là hình phạt vẫn như
vậy, ngay cả khi không có sai lầm trong việc
áp dụng pháp luật. Vi phạm pháp luật trong
trường hợp này được coi là không có hậu
quả nên giám đốc thẩm chỉ là vô ích. Lí
thuyết về hình phạt đúng biện minh cho sai
lầm trong việc áp dụng pháp luật bị chỉ trích
ở Pháp, vì thừa nhận hiệu lực quyết tụng cho
bản án sai lầm về áp dụng pháp luật. Tuy
nhiên, lí thuyết này lại được một số quốc gia
thuộc hệ thống romano - germanique quy định
rõ trong BLTTHS như Italia (Điều 619-1),
Bỉ (Điều 411). Pháp luật Mĩ cũng biết đến
một lí thuyết tương tự: Lí thuyết về sai lầm
không đáng kể (harmless error). Theo Điều
52 Luật tố tụng hình sự Liên bang "những
vi phạm, sai lầm, không hợp lệ và mâu
thuẫn mà không ảnh hưởng tới quyền cơ
bản được coi là không quan trọng". Lí
thuyết sai lầm không đáng kể, thậm chí còn
được áp dụng cho cả những vi phạm hiến
pháp. Trong vụ Chapman V. California
(1967), Toà án tối cao khẳng định: Một số
vi phạm hiến pháp sẽ đương nhiên làm vô
hiệu quyết định của toà án nhưng cũng có
những vi phạm, trong trường hợp đặc biệt,
được coi là không quan trọng.
(10)
Về điểm
này, luật tố tụng hình sự Việt Nam tương

tục (giai đoạn) duy nhất kiểm tra lại việc áp
dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án. Tố tụng, nếu phát triển đến giám đốc
thẩm, đương nhiên đã trải qua nhiều giai
đoạn mà giai đoạn sau luôn phải kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn trước
và có biện pháp khắc phục nếu phát hiện
thấy vi phạm pháp luật. Với rất nhiều cơ hội
khắc phục như vậy nhưng nhà làm luật Việt
Nam vẫn xem giám đốc thẩm như một
"chuyến tầu vét" cho tất cả những vi phạm
pháp luật chưa được phát hiện và giải quyết.
Trở lại trường hợp của Pháp, Toà giám đốc
thẩm giới hạn phạm vi xem xét đối với nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 4/2006
13
những vi phạm pháp luật của toà án. Hơn thế
nữa, những vi phạm pháp luật của toà án nếu
đã có cơ hội khắc phục bằng những thủ tục
khác mà người tham gia tố tụng bỏ lỡ, không
yêu cầu thì không còn là căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm. Ví dụ: Những lí do yêu cầu
vô hiệu không được chấp nhận là căn cứ
kháng nghị giám đốc thẩm nếu người tham
gia tố tụng không đưa những lí do này ra khi
toà án cấp phúc thẩm xem xét kháng cáo, trừ
trường hợp họ không thể biết được những lí

đầu tính kể từ khi tuyên bản án, quyết định,
hoặc trong một số trường hợp, kể từ khi tống
đạt bản án, quyết định. Thời hạn kết thúc khi
hết giờ làm việc của phòng thư kí toà án.
Giống như pháp luật Việt Nam, nếu thời hạn
hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên
tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của
thời hạn nhưng khác với pháp luật Việt Nam,
kháng nghị giám đốc thẩm quá hạn có lí do
chính đáng được chấp nhận.
Kháng nghị vì lợi ích pháp luật là kháng
nghị không thời hạn, mặc dù đã hết thời hạn
mới kháng nghị cũng được chấp nhận (Điều
621 BLTTHS Pháp).
2. Hình thức kháng nghị
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ
lí do và được gửi cho: 1. Toà án đã ra bản
án, quyết định bị kháng nghị; 2. Toà án sẽ
xét xử giám đốc thẩm; 3. Người bị kết án và
những người có quyền và lợi ích liên quan
đến việc kháng nghị. Trước khi bắt đầu
phiên toà giám đốc thẩm, người đã kháng
nghị có quyền bổ sung kháng nghị (nếu chưa
hết thời hạn kháng nghị) hoặc rút kháng nghị
(Điều 277 BLTTHS Việt Nam).
Trong tố tụng hình sự Pháp, kháng nghị
giám đốc thẩm được thực hiện dưới hình
thức một tuyên bố kháng nghị bằng văn bản
tại phòng thư kí của toà án đã ra bản án,

ngh trc ri mi phỏt trin lớ do khỏng
ngh sau. Bn tng trỡnh lớ do khỏng ngh
ch nờu lờn vi phm trong vic ỏp dng phỏp
lut, ch ra vn bn phỏp lut b vi phm v
khụng c a ra nhng sai lm v ni
dung v ỏn hoc khụng a ra ng thi c
sai lm v hỡnh thc v ni dung. Bn tng
trỡnh lớ do khỏng ngh cng khụng c a
ra nhng lớ do mi, ngha l nhng lớ do
cha tng t ra trc cỏc to ỏn xột x v
ni dung, tr nhng vi phm trt t cụng (li
ớch chung) nh vi phm thm quyn, ht thi
hiu truy cu trỏch nhim hỡnh s Tng
trỡnh khỏng ngh c gi cho phũng th kớ
ca to ỏn ó ra bn ỏn, quyt nh b khỏng
ngh hoc To giỏm c thm.
Giỏm c thm l th tc c bit trong
t tng hỡnh s. Nh lm lut cỏc quc gia
u mun hn ch ỏp dng th tc giỏm c
thm vi nhng c ch khỏc nhau.
(11)
Nhng
kinh nghim ca Phỏp cú th gi ý cho
chỳng ta trong vic nghiờn cu hon thin
ch nh giỏm c thm vi nhng quy nh
th hin rừ th tc ny ch nhm xem xột li
nhng vi phm trong vic ỏp dng phỏp lut
ca to ỏn ch khụng phi l vi phm trong
c quỏ trỡnh iu tra, truy t, xột x nh quy
nh hin nay. Nu thay i theo hng ú

xut ú.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status