nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata) - Pdf 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN NGÔ MINH DUNG NGHIÊN CỨU PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN
CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN

(Channa striata)
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN
CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN

(Channa striata)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. TRẦN THỊ THANH HIỀN
Ts. BÙI MINH TÂM
2010
iii

CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi trong khuôn khổ của đề tài
"Nghiên cứu phương thức
thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen
(Channa striata)
"
và kết
quả này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào khác.

Cần Thơ, ngày 10 tháng 10 năm 2010
.
Người cam kết


Nghiệm thức đối chứng được thay thế dần
Moina
bằng cá tạp, lượng cá tạp
tăng dần 20% cá tạp/ngày. Các nghiệm thức còn lại được thay thế dần
Moina

(cá tạp) bằng thức ăn chế biến, lượng thức ăn chế biến tăng dần 10% hoặc
20% thức ăn chế biến/ngày ở các thời điểm 10 ngày tuổi, 17 ngày tuổi và 24
ngày tuổi. Thí nghiệm kéo dài trong 5 tuần. Kết quả cho thấy cá lóc đen bột
có thể tập ăn thức ăn chế biến ở 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10%
thức ăn chế biến/ngày cho tỉ lệ sống (64,7%) và tăng trưởng
(SGR=9,64%/ngày) khác biệt không có ý nghĩa (
p>0,05
) so với nghiệm thức
đối chứng.
Thí nghiệm 2 được bố trí dựa trên kết quả của thí nghiệm 1, sử dụng
thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả nhất để bố trí các nghiệm thức
thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau nhằm so sánh ảnh
hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến
của cá bột. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với 3 lần lặp lại. Nghiệm thức đối
chứng không bổ sung chất dẫn dụ, các nghiệm thức còn lại lần lượt được bổ
sung 2% dịch cá thuỷ phân, 2% dầu gan mực hoặc 2% dịch trùn quế. Thí
nghiệm kéo dài trong 4 tuần. Kết quả cho thấy dịch cá thuỷ phân là chất dẫn
dụ kích thích bắt mồi hiệu quả nhất, cho tỉ lệ sống (79,3%) và tăng trưởng
(SGR=8,89%/ngày) cao nhất.
artificial food at day 17
post-hatch
with the replacing

method which increased 10% amount of artificial food per
day reached
survival rate
(64,7%) and specific
growth rate
(SGR=8,89%/ngày) was not significantly
(
p>0,05
)
compared to the control.

The second experiment based on
the optimal results from the first
experiment.
The objectives of the experiment were to investigate the effects
of different attractants on the
effective utilization of artificial food at fry

stage.
The experiment included 4
treatments with 3 replications. The control
treatment was done by feeding diet without
attractant supplementation. The

treatments (2, 3 and 4) were fed diets
adding 2% fish protein hydrolysate, 2%

MỤC LỤC
v
DANH SÁCH BẢNG
vii
DANH SÁCH HÌNH
viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ix
Chương 1: GIỚI THIỆU
1
Giới thiệu 1
Mục tiêu của đề tài 2
Nội dung nghiên cứu 2
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc đen 3
2.1.1 Hệ thống phân loại 3
2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng 3
2.2 Một số nghiên cứu về ương cá bằng thức ăn chế biến 4
2.2.1 Phương thức tập ăn thức ăn chế biến trong quá trình ương
cá bột 4
2.2.2 Giai đoạn sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến của cá bột 6
2.2.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ trong quá trình tập ăn 8
2.2.4 Khẩu phần ăn và nhu cầu đạm của cá giai đoạn bột và giống
đối với thức ăn chế biến 9
2.2.5 Chất dẫn dụ trong thức ăn chế biến của cá 9
Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
12
3.1 Thời gian và địa điểm 12
3.2 Vật liệu nghiên cứu 12

42
5.1 Kết luận 42
5.2 Đề xuất 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
43
PHỤ LỤC
49
Phụ lục A 49
Phụ lục B 55
Phụ lục C 58
viii

DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Thành phần nguyên liệu của thức ăn chế biến sử dụng trong thí
nghiệm 13
Bảng 3.2: Thành phần dinh dưỡng của thức ăn sử dụng trong thí nghiệm 13
Bảng 3.3: Xuất xứ và thành phần hoá học chất dẫn dụ sử dụng trong thí
nghiệm 16
Bảng 4.1 : Các yếu tố lý hoá trong thời gian thí nghiệm 1 20
Bảng 4.2: Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế
biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau trước và sau 5 tuần thí
nghiệm 29
Bảng 4.3 : Các yếu tố lý hoá trong thời gian thí nghiệm 2 34

dụng trong thí nghiệm 13
Hình 3.3: Thời điểm và phương thức tập ăn của các nghiệm thức trong thí
nghiệm 1 15
Hình 3.4: Cá bột cá lóc đen 10 ngày tuổi và hệ thống bể thí nghiệm trong thí
nghiệm 1 15
Hình 3.5: Các chất dẫn dụ sử dụng trong thí nghiệm 2 và thức ăn chế biến
sau khi bổ sung chất dẫn dụ 16
Hình 3.6: Hệ thống bể bố trí thí nghiệm 2 17
Hình 4.1: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các
thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm 21
Hình 4.2: Tỉ lệ phân cỡ về khối lượng (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức
ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí
nghiệm 24
Hình 4.3: Sự phân cỡ về khối lượng ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-20%
TĂCB/ngày 25
Hình 4.4: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở
các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm 26
Hình 4.5: Sự ăn nhau của cá lóc đen bột trong quá trình tập ăn thức ăn chế
biến 27
Hình 4.6: Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) của cá lóc đen bột sử dụng
thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần
thí nghiệm 30
Hình 4.7: Tỉ lệ chết tự nhiên (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến
ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm 32
Hình 4.8: Sưởi ấm hệ thống bể thí nghiệm bằng đèn điện 33
Hình 4.9: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ
sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm 35
Hình 4.10: Cá tập trung tại sàn ăn để bắt mồi (NT bổ sung dịch cá) 36
Hình 4.11: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có
bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm 39


1

Chương 1
GIỚI THIỆU
Cá lóc đen (
Channa striata
) là loài cá nước ngọt có kích thước lớn,
thịt ngon và sinh trưởng nhanh. Cá phân bố tự nhiên trên các sông, kênh,
rạch, đồng ruộng… Ở ĐBSCL cá lóc đen có thể nuôi thâm canh trong ao và
bè đều đạt năng suất cao. Cá lóc đen là loài cá dữ, ăn thịt. Ngoài tự nhiên cá
lóc đen ăn các động vật sống như cá, tép, ếch, nhái…nhưng khi nuôi trong ao

phí và chủ động được nguồn thức ăn trong ương nuôi (Nguyễn Văn Triều và
ctv
., 2008). Do vậy việc nghiên cứu thời điểm và phương thức thích hợp khi
chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho cá lóc đen giai
đoạn bột là cần thiết. Chính vì lý do trên đề tài
"Nghiên cứu phương thức
thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata)"
được
thực hiện.
2

Mục tiêu của đề tài
Tìm ra phương thức thay thế thức ăn hiệu quả trong ương cá lóc đen
khi chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến để góp phần hạn chế
việc sử dụng cá tạp trong ương nuôi cá lóc đen.
Nội dung nghiên cứu


Xác định thời điểm sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen
giai đoạn bột.


Xác định phương thức thay thế từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế
biến của cá lóc đen giai đoạn bột.


So sánh hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ
khác nhau của cá lóc đen giai đoạn bột.
Bộ: Perciformes
Họ: Channidae
Giống: Channa
Loài:
Channa striata
(Block 1973)

Hình 2.1: Cá lóc đen (Channa striata)
2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá lóc là loài cá dữ, thân tròn dài. Lược mang dạng hình núm. Thực
quản ngắn, vách dầy, bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày to
hình chữ Y. Đây là loài cá dữ, ăn động vật điển hình. Quan sát ống tiêu
hóa của cá lóc cho thấy cá chiếm 63,01%, tép 35,94%, ếch nhái 1,03% và
0,02% là bọ gạo, côn trùng và mùn bã hữu cơ (Dương Nhựt Long, 1999).
Theo các nghiên cứu trước đây, cá lóc có sự lựa chọn thức ăn khác
nhau ở từng giai đoạn phát triển, thức ăn của cá thay đổi khi kích cỡ cá tăng.
Cá mới nở còn sử dụng dinh dưỡng từ khối noãn hoàng. Từ ngày thứ 4-5,
khi noãn hoàng đã hết, cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Lúc này cá bột ăn
được các loài động vật phù du vừa cỡ miệng chúng như luân trùng, trứng
nước. Khi cá dài cỡ 5-6 cm chúng đã có thể rượt bắt các loài tép và cá có
4

kích cỡ nhỏ hơn chúng. Khi cơ thể đạt chiều dài trên 10 cm, cá đã có tập tính
ăn như cá trưởng thành (Phạm Văn Khánh, 2003). Theo Qin and Fast (1997),
cá bột cá lóc đen có chiều dài 6-7 mm, độ mở của miệng là 0,55 mm sẽ chọn
thức ăn là ấu trùng
Artermia
và không ăn thức ăn chế biến, khi cá đạt chiều
dài 15-20 mm thì nhóm giáp xác râu ngành và giáp xác chân chèo chiếm
96% lượng thức ăn. Cá dài 30-40 mm thức ăn là động vật nổi giảm đáng kể

sống sang ăn thức ăn chế biến, đối tượng nuôi sẽ được
cho ăn động vật nổi đã chết (như
Artermia
đã được đông lạnh hoặc sấy khô);
(ii) cho ăn đồng thời thức ăn tự nhiên và thức ăn chế biến với tỉ lệ thức ăn tự
nhiên là 10% - 50% trong khẩu phần ăn. Cách này có thể áp dụng từ giai
5

đoạn rất sớm; (iii) Như cách thứ 2, nhưng cho ăn ở giai đoạn muộn hơn sẽ
hạn chế được sự phân đàn.
Qin
et al.
(1997) thử nghiệm trên cá lóc đen bột cho thấy việc sử dụng
kết hợp thức ăn chế biến và
Artermia
sống cho tỉ lệ sống cao nhất (82%) và
cá chết 100% ở nghiệm thức chỉ cho ăn thức ăn chế biến. Nhóm tác giả này
cũng chứng minh rằng có thể tập cho cá ăn thức ăn chế biến theo phương
pháp sau: (i) Cho cá ăn ấu trùng
Artermia
có bổ sung thức ăn chế biến trong
30 ngày, sau đó loại bỏ dần ấu trùng
Artermia
trong giai đoạn 7-10 ngày; (ii)
Chỉ cho cá ăn ấu trùng
Artermia
sống trong 30 ngày, 7-10 ngày tiếp theo cho
ăn kết hợp giữa
Artermia
sống với thức ăn chế biến và sau cùng chuyển hoàn


trong 4 ngày (
Artermia
/thức ăn chế biến: 75/25; 50/50; 25/75; 0/100)
(Verreth and Tongeren, 1989).
Một số nghiên cứu còn lưu ý đến thời gian cho ăn trong ngày, như
trong thử nghiệm của Alves
et al
. (2006) trên cá móp (
Centropomus
parallelus
) tác giả cũng cho ăn cùng lúc
Artermia
và thức ăn chế biến với
hàm lượng
Artermia
giảm dần và loại hẳn trong 3 ngày, nhưng trong thời
gian tập ăn, thức ăn chế biến sẽ được cho ăn trước
Artermia
khoảng 30 phút.
Hart and Purser (1996) tập ăn trên cá bơn xanh (
Rhombosolea tapirina
Gunther
) ở 23 ngày tuổi cũng bằng cách giảm dần
Artermia
và tăng dần thức
ăn chế biến trong vòng 10 ngày trước khi chuyển sang ăn hoàn toàn bằng
thức ăn chế biến, nhưng thức ăn nhân tạo sẽ được cho ăn 3 lần/ngày trong
khi
Artermia

minh rằng sự thay thế dần
Zooplankton
bằng thức ăn chế biến với tỉ lệ thay
thế là 10% TĂCB/ngày đã mang lại hiệu quả cao (tỉ lệ sống 78%), trong khi
đó nếu chuyển đột ngột từ thức ăn
Zooplankton
sang thức ăn chế biến thì có
tỉ lệ sống rất thấp (13,3%) (Herbert and Graham, 2003).
Các phương pháp trên cũng được khẳng định trong nghiên cứu của
Kolkovski
et al.
(1997) trên cá chẽm (Dicentrarchus labrax)
khi cho ăn k
ết
hợp thức ăn chế biến và
Artermia
, trên
Sander lucioperca
khi cho ăn kết hợp
với chế độ giảm dần
Artermia
và tăng dần lượng thức ăn chế biến
(Kestemont
et al.,
2007). Ở cá lóc bông (
Channa micropeltes
), sự kết hợp
giữa thức ăn chế biến với trùn chỉ hoặc cá xay đã cải thiện được những bất
lợi về tăng trưởng và tỉ lệ sống (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004). Tương tự cá
còm (

) cũng thu được kết quả
tương tự (Quin
et al
., 1997 ; Bui
et al
., 2004).
Theo Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004) thời gian cá bắt đầu sử dụng hiệu
quả thức ăn chế biến chịu ảnh hưởng lớn vào sự hoàn thiện của ống tiêu hóa
cũng như sự phát triển chức năng sinh lý của ống tiêu hóa ở giai đoạn cá bột,
thời gian này cũng khác nhau tùy loài. Ở cá chẽm (
Dicentrarchus labrax)

20 ngày sau khi nở (Infante
et al
., 1997). Nghiên cứu trên cá trê phi (
Clarias
gariepinus
) và cá trê vàng (
Clarias macrocephalus
) đều cho rằng chúng có
thể sử dụng thức ăn chế biến sau 4 ngày sử dụng thức ăn là động vật nổi
(Verreth and Tongeren, 1989; Fermin and Bolivar, 1991), trong khi đó ở cá
lóc đen (
Channa striatus
) là 30 ngày (Qin
et al
., 1997). Một số nghiên cứu
khác trên các loài cá khác cũng khẳng định điều này như cá bơn có thể sử
dụng 100% thức ăn chế biến trong khẩu phần khi cá 10 ngày tuổi, ở cá vền
biển đỏ (

lượng cao có thể được cá chấp nhận ở thời điểm này (Ostaszewska
et al
.,
2005). Một nghiên cứu khác lại chứng minh cá vược măng (
Sander
lucioperca
) sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến ở 19 ngày tuổi (Kestemont
et
8

al
., 2007). Kết quả phân tích mô học quá trình phát triển của ruột cá cho thấy
tuyến dạ dày của cá thát lát còm (
Notopterus chitala
) xuất hiện vào ngày thứ
8 sau khi nở chứng tỏ ở giai đoạn này dạ dày cá mới bắt đầu phát triển hoàn
chỉnh về chức năng tiêu hoá thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và
ctv.
, 2007).
Tuy nhiên đến ngày tuổi thứ 20 mới là thời điểm cá còm (
Chitala chitala
) sử
dụng hiệu quả thức ăn chế biến (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương
Thùy, 2008).
Ở một số loài cá, tập ăn thức ăn chế biến ở giai đoạn sớm lại tốt hơn ở
giai đoạn muộn. Trong báo cáo trên cá bơn xanh (
Rhombosolea tapirina
Gunther
) tập ăn hiệu quả ở 23 ngày tuổi với tỉ lệ sống 82,2% mà không ảnh
hưởng đến tăng trưởng. Nếu tập ăn từ giai đoạn 50 ngày tuổi hoặc trễ hơn sẽ

nhiệt độ trong thời gian tập ăn trong khoảng từ 11,5°C lên 14,5°C thì khả
năng tiêu thụ thức ăn chế biến sẽ tốt hơn so với trong điều kiện nhiệt độ thấp
hơn (Puvanendran
et al
., 2006). Appelbaum (1989) cũng đưa ra khuyến cáo
nên tăng nhiệt độ của nước trong quá trình ương nuôi cá biển bằng thức ăn
9

chế biến để làm tăng trao đổi chất cá, tăng mức độ hoạt động, từ đó cá sẽ
nâng cao khả năng chấp nhận và sử dụng thức ăn chế biến.
Cũng cố cho giả thuyết này Hamlin and Kling (2001) thử nghiệm trên
cá tuyết chấm đen (
Melanogrammus aeglefinus
) cũng cho kết quả tương tự
khi tăng nhiệt độ từ 8,5
o
C lên 10,5
o
C trong quá trình tập ăn thức ăn chế biến
đã tăng tỉ lệ sống từ 6,3% lên 65%, tác giả cho rằng nâng cao nhiệt độ đã góp
phần cải thiện khả năng sử dụng và tiêu hoá thức ăn chế biến của cá giống.
Như vậy khi nhiệt độ nước tăng thì nhu cầu trao đổi chất cũng tăng
dẫn đến nhu cầu năng lượng tăng, cá đáp ứng nhu cầu bằng cách tăng khả
năng tiêu thụ thức ăn, từ đó sẽ đẩy nhanh việc chấp nhận và sử dụng thức ăn
chế biến. Do đó quá trình tập ăn cũng hiệu quả hơn.
2.2.4 Khẩu phần ăn và nhu cầu đạm của cá giai đoạn bột và giống đối với
thức ăn chế biến
Thử nghiệm trên cá lóc đen bột cho ăn thức ăn chế biến có hàm lượng
đạm khác nhau (350-600 g đạm/kg ), kết quả cho thấy nhu cầu chất đạm
trong thức ăn của cá lóc đen bột là 550 g đạm/kg thức ăn (nguồn đạm là bột

dẫn dụ động vật thủy sản. Tính chất chung của chất dẫn dụ là : không bay
hơi, có trọng lượng phân tử rất nhỏ, là hợp chất hữu cơ chứa nitơ, dễ tan
trong nước và bền nhiệt. Hàm lượng chất dẫn dụ thay đổi tùy theo loài từ
1%-5% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Ngoài chất dẫn dụ tự nhiên (bột mực, dịch thủy phân cá, bột nhuyễn
thể, giun nhiều tơ, nhộng tằm, trùn quế), các chất dẫn dụ nhân tạo như các
acid amin tự do (
glycine, analine, glutamate
) hay một số phân tử peptide như
betaine cũng được tổng hợp để bổ sung vào thức ăn cho động vật thủy sản
(Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Việc bổ sung chất dẫn dụ có thể cải thiện vị ngon của thức ăn, từ đó
cải thiện khả năng bắt mồi và tốc độ tăng trưởng của cá (Toften
et al
., 2003).
Trên cá hồi
(Salmo salar)
đã ứng dụng việc bổ sung chất dẫn dụ trong thức
ăn nhằm cải thiện tình trạng bỏ ăn khi chuyển cá từ môi trường nước ngọt
sang môi trường nước mặn (Toften
et al.
, 2003). Một vài nghiên cứu tương
tự về hiệu quả sử dụng thức ăn khi có bổ sung chất dẫn dụ cũng được chứng
minh trên cá chình Nhật Bản (Takii
et al.
, 1986), trên cá vền (
Sparus aurata
L
) (Tandler
et al

σ-terpineol
là những chất dẫn dụ hiệu quả, trong đó
β-elemene

là chất có tác dụng kích thích bắt mồi hiệu quả nhất (Hrada
et al.,
1996).
Tương tự trên tôm càng xanh (
Macrobrachium rosenbergii
), betaine được bổ
sung 5, 10 và 15 g/kg vào công thức thức ăn đã cải thiện đáng kể tốc độ tăng
trưởng của tôm (Felix and Sudharsan, 2004).
Vai trò quan trọng của chất dẫn dụ cũng được chứng minh qua hàng
loạt các nghiên cứu về chất dẫn dụ tự nhiên (dịch cá thuỷ phân, dầu gan
mực). Thức ăn có vị hấp dẫn hơn sẽ làm gia tăng phản xạ sử dụng thức ăn
của cá (Papatryphon and Soares, 2000). Theo Cui and Xue (2001) dịch chiết
từ mực là chất dẫn dụ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất lên khả năng bắt mồi của cá
11

chép (
Carassius auratus gibelio
). Trên cá hồi
(Salmo salar)
, dầu mực cũng
đóng vai trò như chất dẫn dụ làm tăng khả năng bắt mồi và cải thiện tốc độ
tăng trưởng (Toften
et al
., 2003).
Nghiên cứu của Papatryphon and Soares (2000) đã chứng minh rằng
chất dẫn dụ còn đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn sử dụng thức ăn

Ngoài ra hàm lượng các acid amin trong thức ăn có bổ sung dịch cá
cao hơn so với thức ăn không bổ sung, do vậy dẫn đến việc sử dụng protein
hiệu quả hơn, cá tăng trưởng nhanh hơn (Refstiea
et al
., 2004). Bên cạnh đó
theo Berge and Storebakken (1996), dịch cá đã nâng cao chất lượng của thức
ăn mà cụ thể là mùi của thức ăn đối với cá, điều đó đã ảnh hưởng đến khả
năng tiêu thụ thức ăn nên đã có tác động tích cực đến tăng trưởng của cá.
Nhận định này đã được chứng minh qua các nghiên cứu trên cá hồi
(Salmo
salar)
(Berge and Storebakken, 1996; Refstiea
et al
., 2004; Espe
et al.,

1999), cá hồi nước ngọt (
Oncorhynchus mykiss
) (Aksnes
et al
., 2006a), cá rô
phi (Fagbenro
et al
., 1994), cá chép (Carvalho
et al
., 1997), cá mú Nhật Bản
(
Lateolabrax japonicus
) (Liang
et al

Thí nghiệm 2 : Cá lóc đen bột 17 ngày tuổi, nguồn cá ở huyện Châu
Thành – An Giang.
Cá thí nghiệm được chọn đồng cỡ, không nhiễm bệnh, không dị tật,
không xay xát. Cá được thuần cho quen với điều kiện thí nghiệm 3 ngày
trước khi bố trí.
Nguồn nước thí nghiệm
: nước được cấp từ ao lắng, Khoa Thủy sản, Đại
học Cần Thơ.

Hình 3.1 :
Nguồn nước sử dụng trong thí nghiệm
Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm
:
-

Thức ăn chế biến (TĂCB) : thức ăn viên khô, hàm lượng đạm 50%. Thức
ăn bao gồm các thành phần chính như bột cá, bột đậu nành, cám, bột mì
(Bảng 3.1). Công thức thức ăn này được xác định dựa theo nghiên cứu
của Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004). Thức ăn viên khô được bảo quản
trong tủ đông và sẽ được xay nhuyễn trước khi phối trộn với thức ăn tươi.
-

Cá tạp : cá biển được loại bỏ xương và xay nhuyễn.



Chất béo thô 19,89

2,68

6,81

Tro 11,1

5,47

12,53

Ghi chú
:
Ẩm độ (% vật chất tươi)
Moina - 92,69%; Cá biển xay - 75,98%; Thức ăn chế biến - 9,41%

Hình 3.2:
Thức ăn chế biến (trái) và cá biển được loại xương và xay nhuyễn
(phải) sử dụng trong thí nghiệm

14


Thời gian thí nghiệm là 5 tuần.


Thí nghiệm gồm 7 nghiệm thức, trong đó có 1 nghiệm thức đối chứng.
Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần


Nghiệm thức đối chứng: sử dụng hoàn toàn thức ăn tươi sống.
Thay thế dần
Moina
bằng cá tạp, lượng cá tạp tăng dần 20% cá
tạp/ngày đến khi sử dụng 100% cá tạp.


Các nghiệm thức còn lại: khác nhau về thời gian bắt đầu tập ăn
TĂCB (10, 17 và 24 ngày tuổi) và phương thức tập ăn (thay thế dần
Moina
(cá tạp) bằng TĂCB, lượng TĂCB tăng dần 10% TĂCB/ngày
hoặc 20% TĂCB/ngày đến khi sử dụng 100% TĂCB). Trong thời gian
thí nghiệm, các nghiệm thức chưa đến thời điểm cho ăn TĂCB sẽ được
cho ăn như nghiệm thức đối chứng.

Trích đoạn Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dẫn dụ Phương pháp thu và phân tích mẫu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status