Nghiên cứu xác định thành phần hoá học trong một số dịch chiết của dầu rái ở Đại Lộc-Quảng Nam - Pdf 11

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA HÓA
   Nghiên cứu xác định thành phần hoá học trong
một số dịch chiết của dầu rái ở Đại Lộc-Quảng
Nam KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN KHOA HỌC Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Khánh Ly
Lớp : 08 – CHD
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS Đào Hùng Cường Đà Nẵng – 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Mục đích nghiên cứu 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Các phương pháp nghiên cứu 8
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 8
6. Bố cục của luận văn 9

3.2.2. Dịch chiết toluen 34
3.2.3. Dịch chiết methanol 37
3.3. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng 41
3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian 41
3.3.2. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ rắn lỏng 42
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Tên bảng
Trang
3.1
Kết quả khảo sát độ ẩm của dầu rái
21
3.2
Kết quả khảo sát hàm lượng tro của dầu rái
22
3.3
Hàm lượng một số kim loại nặng trong dầu rái
22
3.4
TPHH của dịch chiết etylaxetat
25
3.5
TPHH của dịch chiết toluene
29
3.6
TPHH của dịch chiết methanol

5
1.7
Chò nâu
6
1.8
Dầu bao
6
1.9
Cây dầu rái
7
1.10
Hoa dầu rái
7
1.11
Quả dầu rái
8
2.1
Vạt miệng trước khi lấy dầu
11
2.2
Dầu rái đã xử lý
12
2.3
Bộ chiết soxhlet
17
2.4
Quá trình phân tách chất trong sắc ký
18
2.5
Sơ đồ thu gọn của thiết bị sắc ký khí

37 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, được sự ưu đãi của thiên nhiên
nên thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loài thực vật. Trong các loài thực vật đó,
có nhiều loại cây mang lại cho con người những giá trị to lớn về kinh tế, y học,
công nghiệp,… Một trong số đó là các cây thuộc họ dầu (Dipterocapaceae) như trà
beng (Dipterocarpus obtusifolius), dầu rái (Dipterocarpus alatus), song nàng
(Dipterocarpus dyeri)… là những cây lấy dầu có nhiều giá trị trong ngành công
nghiệp và đời sống. Đặc biệt cây dầu rái là một loại cây cho giá trị kinh tế lớn nhất
[1].
Dầu rái là một loại nhựa rất bền về mặt hoá học, chịu nước, có khả năng
dùng để làm chất chống thấm [4] như người dân vùng Đông Nam Châu Á đã dùng
loại dầu này để làm sơn trám thuyền, sơn quét các vật dụng bằng mây, tre, gỗ,
nứa… Nó có hoạt tính sinh học khá cao như chữa một số bệnh về viêm da, lở loét,
mụn nhọt, nước ăn chân, bệnh vảy nến, eczema… Ngoài ra, dầu rái còn là một
nguồn nguyên liệu thiên nhiên quí giá để từ đó chuyển hoá, chế tạo thành các sản
phẩm công nghiệp quan trọng như: thuốc chữa bệnh, phụ gia sơn, chất chống thấm,
chất biến tính polymer, chất phụ gia cho cao su …, hoặc có thể thay thế dầu trẩu,
dầu thông khi cần thiết [3].
Cho đến nay vấn đề nghiên cứu cây dầu rái trên thế giới và trong nước còn
rất ít và cũng giới hạn ở mức độ mô tả về một số đặc điểm của nó. Việc nghiên cứu
vấn đề khai thác và các ứng dụng của cây dầu rái cũng chỉ là những kinh nghiệm
dân gian còn việc nghiên cứu về thành phần, tính chất hóa học chưa được quan tâm.
Do đó, với mong muốn tìm hiểu về thành phần trong dầu rái để góp phần tìm ra
công dụng của nó tôi xin chọn đề tài “Nghiên cứu xác định thành phần hoá học
trong một số dịch chiết của dầu rái ở Đại Lộc-Quảng Nam”.
Tôi hy vọng rằng với những kết quả nghiên cứu được từ đề tài kết hợp với

+ Ý nghĩa thực tiễn
- Nhằm giúp cho việc ứng dụng dầu rái ở phạm vi rộng một cách khoa học
hơn.
- Giải thích một cách khoa học một số kinh nghiệm dân gian về ứng dụng của
dầu rái.
- Tổng hợp kiến thức về hợp chất thiên nhiên để giảng dạy bộ môn hóa học
trong nhà trường phổ thông được tốt hơn.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 40 trang trong đó có 8 bảng, 25 hình và 4 hình phụ lục. Phần
mở đầu (3 trang), kết luận và kiến nghị (1 trang), tài liệu tham khảo (2 trang với 16
tài liệu). Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan (7 trang).
Chương 2: Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu (10 trang).
Chương 3: Kết quả và thảo luận (17 trang).
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

1.1. Sơ lƣợc về họ dầu
Họ Dầu, một số tài liệu tiếng Việt gọi còn gọi họ Hai cánh, có danh pháp
khoa học là Dipterocapaceae, là một họ của 17 chi và khoảng 580-680 loài cây thân
gỗ phân bố chủ yếu ở các rừng mưa nhiệt đới, vùng đất thấp với quả có hai cánh.
Tên gọi khoa học của họ xuất phát từ chi điển hình là Dipterocarpus, có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp (di = hai, pteron = cánh và karpos = quả, nghĩa là quả có hai cánh)
[14].
Các chi lớn nhất là Shorea (196-360 loài), Hopea (105 loài), Dipterocarpus
(70 loài) và Vatica (60-65 loài). Nhiều loài là các loại cây nổi bật trong các cánh
rừng, thông thường có thể cao tới 40-70m, đôi khi cao trên 80m (trong các chi
Dryobalanops, Hopea và Shorea), với cây còn sống cao nhất (Shorea faguetiana) đạt
tới 88,3m.
Các loài trong họ này có tầm quan trọng lớn trong việc buôn bán gỗ. Chúng
phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, từ miền bắc Nam Mỹ tới châu Phi, Seychelles,

alatus)

Hình 1.4. Dầu song nàng (Dipterocarpus
dyeri)

Hình 1.6. Chò lông (Dipterocarpus
pilosus)
Hình 1.5. Dầu đọt tím (Dipterocarpus
grandiflorus)
Hình 1.1. Dầu trà beng (Dipterocarpus
obtusifolius)

1.3. Giới thiệu về dầu rái [5], [10], [13]
1.3.1. Đặc tính sinh thái
1.3.1.1. Tên gọi
Tên thường gọi : Dầu con rái, dầu nước, dầu sơn, Mậy nhang (Lào)
Tên khoa học : Dipterocarpus alatus
1.3.1.2. Phân loại khoa học
Giới : Plantae
Không phân hạng : Angiospermae
Không phân hạng : Eudicots

là loại có lá màu hồng, rái xanh là loại có lá màu xanh,
ruột gỗ có màu trắng.
+ Lá đơn mọc cách, mặt trên màu xanh thẫm,
nhẵn bóng, mặt dưới xanh nhạt có lông mịn, phiến lá
hình bầu dục thuôn, đầu nhọn, gốc tù hay hình tim, dài
10-26cm, rộng 6-15cm, cuống dài 3-4cm, có lông mịn.
Lá kèm có màu đỏ nhạt, thường rụng. Đỉnh lá có mũi
nhọn, gốc tròn hay hơi lõm. Gân phụ có khoảng 15-20
cặp, song song và nổi rõ ở mặt dưới, phiến xếp dọc
theo gân phụ. Cây già lá nhỏ hơn chút ít.
+ Hoa (hình 1.10) khá lớn, không cuống, tập
Hình 1.9. Cây dầu rái
Hình 1.10. Hoa dầu rái
Hình 1.11. Quả dầu rái
hợp thành chùm đơn hay phân nhánh, ở đầu cành hay
nách lá có mùi hôi ê Hoa có ống đài mang quả, với 5
lá đài mà 2 cái sẽ phát triển thành cánh mỏng dạng
màng; 5 cánh hoa màu hồng nhẵn, dài 5cm. Nhị 20-25
đính trên ống tràng, thành hai vòng, vòng trong 10,
vòng ngoài 15. Bao phấn 2 ô, đỉnh trung đới kéo dài
thành mũi nhọn. Bầu hương phủ nhiều lông 3 ô, mỗi ô
hai noãn, vòi nhẵn, hình sợi dài 3-4mm.
+ Quả (hình 1.11) màu xám hình trứng có mũi
nhọn, mặt ngoài phủ lớp lông, có 2 cánh lớn dài 12-15cm, rộng 2,5-4cm, lúc non có
màu đỏ tươi, lúc già màu nâu. Nhân quả dầu rái có chất bột ăn được.
1.3.3. Thành phần hóa học của cây dầu rái [3], [11]
Theo các tài liệu của Việt Nam, tình hình nghiên cứu thành phần hóa học của
cây dầu rái còn rất ít. Nhựa dầu gồm khoảng 39,10% tinh dầu và 60,90% nhựa. Nhựa
có chứa axit kết tinh, thành phần chủ yếu của tinh dầu là các sesquiterpen.
1.3.4. Khai thác dầu rái [6], [7]

viên gạch lại với nhau trong việc tạo thành kiệt tác di sản thế giới Tháp Mỹ Sơn. Loại
nhựa cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn, có độ kết dính rất chặt và
bền, hoàn toàn không thấm nước và rất dễ sử dụng. Đem trộn dầu rái với đất sét khô
hay bột gạch, chúng sẽ tạo thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng. Những đồ dùng
bằng gỗ, tre, nứa, song, mây được quét dầu rái vừa đẹp, kín, bền và vừa nhẹ hơn những
đồ vật làm bằng tôn hoặc sắt, dầu rái còn dùng sơn bảo quản gỗ, làm tăng độ bền mà
không độc.
Trước đây dầu rái còn được dùng để làm đuốc bằng cách bó chung với nhựa
cây chai và một số lá cây dùng đi đêm trong rừng, đi đánh cá trên sông. Trong các cuộc
hành lễ dầu rái được pha với nhiều nguyên liệu có chất thơm khi đốt lên rất sang và
hương thơm bay ngào ngạt.
Dầu rái là một loại nhựa rất bền về mặt hoá học, chịu nước, có khả năng dùng
để làm chất chống thấm. Dầu rái còn là một nguồn nguyên liệu thiên nhiên quý giá để
từ đó chuyển hoá, chế tạo thành các sản phẩm công nghiệp quan trọng như: thuốc chữa
bệnh, phụ gia sơn, chất chống thấm, chất biến tính polyme, chất phụ gia cho cao su …,
hoặc có thể dùng thay thế dầu trẩu, dầu thông khi cần thiết.
Một công dụng độc đáo là dầu rái còn được dùng để chữa bệnh. Năm 1962, bác
sĩ Đặng Vũ Hỷ đã dùng dầu rái bôi lên chân những người làm việc ở dưới nước để đề
phòng bệnh sán vịt. Có nơi, người ta dùng thay một thứ nhựa dầu lấy từ nhiều loại cây
thuộc chi Copaifera (chưa thấy ở Việt Nam) để chữa bệnh lậu với liều 2-4 gam một
ngày. Dầu rái còn được dùng đắp các vết loét, các chứng dị ứng do dép nhựa ăn chân.
Ngoài ra, dầu rái còn chữa khỏi các bệnh như vảy nến, eczema và đại bộ phận các
chứng nấm lở ngoài da bằng cách bôi quét lên da. Có nơi còn dùng cây dầu rái trộn với
gỗ vang, ngâm nước tiểu vài ngày rồi dùng cho bò ngựa biếng ăn. Nhựa có thể thay thế
colophan trong công nghệ chế sơn, véc ni, mực in. Lá, hoa có thể chế tanin và dược
liệu.
Tinh dầu từ nhựa dầu rái có tác dụng tiêu viêm, kháng sinh, làm dịu. Vỏ được
xem như bổ và lọc máu. Nhựa dùng chữa viêm niệu đạo, viêm cuống phổi và bệnh lậu,
nhưng chủ yếu dùng để băng bó các vết thương, vết loét.
Tuy nhiên việc sử dụng dầu rái trên đây chỉ dựa trên cơ sở kinh nghiệm dân gian

hơ dầu không bị bung ra.
Hình 2.1. Vạt miệng trước khi lấy dầu

Hình 2.2. Dầu rái đã xử lý
Yêu cầu kỹ thuật khi hơ lửa vào vạt miệng là làm dầu chảy ra nước trong veo rồi
dùng cọ vuốt cho dầu chảy đều xuống máng, tạo thành một dòng chảy của dầu. Nghề
khai thác dầu rái ở Đại Lộc là việc làm quanh năm, trừ tháng 4 âm lịch vì thời điểm
này cây dầu rái thay lá.
Nguyên liệu được dùng để nghiên cứu là dầu rái đã được xử lý lấy từ Đại Lộc –
Quảng Nam (hình 2.2). 2.1.2. Thiết bị dụng cụ và hóa chất
2.1.2.1. Thiết bị, dụng cụ
Bộ chiết soxhlet, máy đo quang UV-VIS, thiết bị cô quay chân không (phòng thí
nghiệm khoa Hoá, trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng).
Máy quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS (Đài Khí tượng Thủy văn khu vực
Trung Trung Bộ, 660 - Trưng Nữ Vương - Đà Nẵng).
Máy đo sắc kí khí ghép khối phổ GC-MS (Trung tâm dịch vụ phân tích thí
nghiệm TP.Hồ Chí Minh, số 2, Nguyễn Văn Thủ, phường ĐaKao, quận 1, Hồ Chí
Minh).
Tủ sấy, lò nung, cân phân tích, cốc thuỷ tinh, bình tam giác, ống nghiệm, bếp
điện, bếp cách thuỷ, cốc sứ, các loại pipet, bình định mức, bình hút ẩm, giấy lọc…
(phòng thí nghiệm khoa Hoá, trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng).
Dịch chiết toluene 1

Nguyên liệu dầu
rái
Xác định hàm lượng
kim loại nặng

Xác định độ ẩm,
hàm lượng tro

Chiết với etylaxetat
Cắn A

Dịch chiết etylaxetat 1

Chiết với toluen

Cắn B

1. Cô dung môi
2. Ly tâm
Dịch chiết etylaxetat 2

2.3.1.1. Xác định độ ẩm
 Nguyên tắc: Dựa trên nguyên tắc sấy đến khối lượng không đổi
 Tiến hành: Chuẩn bị 5 cốc sứ có kí hiệu, rửa sạch, sấy ở nhiệt độ 100
0
C đến
trọng lượng không đổi, sấy xong bỏ vào bình hút ẩm cho đến khi đạt nhiệt độ phòng thì
cân xác định trọng lượng cốc (m
1
).
Lấy chính xác 5 mẫu dầu rái, mỗi mẫu 10g cho vào cốc. Cân ghi nhận khối
lượng mẫu (m
2
).
Tiến hành sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 100
0
C. Sấy khoảng 2h thì lấy cốc ra để
nguội 15’ trong bình hút ẩm rồi đem cân. Sau đó đem cho vào sấy, cứ 30’ lại đem cân
1 lần. Cứ như vậy đến khi trọng lượng cốc giữa các lần sấy liên tiếp là không đổi hoặc
có sai số khoảng 0,005g thì dừng quá trình sấy. Cân ghi nhận khối lượng (m
3
).
Độ ẩm của mỗi chén là hiệu số khối lượng giữa khối lượng mẫu trước và sau khi
sấy. Suy ra độ ẩm trung bình của 5 mẫu.
Khối lượng ẩm của mỗi mẫu là hiệu số giữa khối lượng mẫu trước và sau khi
sấy m = (m
1
+ m
0
) – m
2

2
: Khối lượng dầu rái (g)
m
3
: Khối lượng chén sứ và mẫu sau khi sấy (g)
n: Số lần xác định W(%)
2.3.1.2. Xác định hàm lượng tro bằng phương pháp tro hóa mẫu
Để xác định hàm lượng tro và các nguyên tố vô cơ trong cơ thể động vật, thực
vật người ta dùng các phương pháp tro hóa mẫu.
 Nguyên tắc: Dựa trên nguyên tắc tro hoá hoàn toàn mẫu bằng cách nung trong
lò nung ở khoảng 650
0
C.
 Tiến hành: Chuẩn bị 5 cốc nung rửa sạch, sấy ở 100
0
C trong 30 phút, nung
trong lò nung ở 600
0
C

trong 30 phút. Làm nguội trong bình hút ẩm và cân ta được m
4
.
Cho 5 mẫu có khối lượng m đã xác định độ ẩm vào cốc nung. Đốt cẩn thận trên
bếp điện đến than hoá hoàn toàn. Sau đó cho vào lò nung, nung ở nhiệt độ 600
0
C cho
đến khi thu được tro màu trắng ngà. Làm nguội trong bình hút ẩm, rồi cân để xác định
khối lượng. Nung được lặp lại cho đến khi cốc nung có khối lượng không đổi m
5

nguyên tố, vạch cộng hưởng là vạch phổ nhạy nhất của phổ phát xạ nguyên tử của
chính nguyên tử đó. Như vậy, để thu được phổ hấp thụ nguyên tử của một nguyên tố
nào đó cần phải thực hiện các quá tình sau:
+ Thực hiện quá trình hoá hơi và nguyên tử hoá mẫu tạo ra các đơn nguyên tử.
Điều này được thực hiện ở nhiệt độ cao nhờ nguồn nhiệt là ngọn lửa đèn khí: phun
dung dịch chất phân tích ở trạng thái aerosol vào ngọn lửa đen khí hoặc bằng phương
pháp không ngọn lửa nhờ tác dụng nhiệt của lò graphite. Trong điều kiện nhiệt độ
không quá cao (1500
0
C – 3000
0
C) đa số các nguyên tử được tạo thành ở trạng thái cơ
bản. Đám hơi nguyên tử này chính là môi trường hấp thụ bức xạ và sinh ra phổ hấp thụ
nguyên tử.
+ Chiếu chùm bức xạ đặc trưng của nguyên tố cần phân tích qua đám hơi
nguyên tử vừa được điều chế. Chùm tia bức xạ này được phát ra từ đền cathode rỗng
(đèn HCL) hay đèn phóng điện không điện cực (EDL) làm chính từ nguyên tố cần xác
định. Do các nguyên tử tự do có thể hấp thu bức xạ cộng hưởng nên cường độ các
chùm bức xạ đị qua mẫu giảm. Sự hấp thụ này tuân theo định luật Lamber-Beer-
Bouger

0
1
lg
I
A lN
I




thụ nguyên tử AAS. Định lượng bằng phương pháp lập đường chuẩn, dung dịch chuẩn
của các kim loại được pha chế từ dung dịch chuẩn gốc 1000mg/lit.
Dùng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử để xác định hàm lượng các
kim loại: As, Cu, Zn trong dầu rái.
2.3.3. Phương pháp chiết
Phương pháp chiết là phương pháp tách lấy chất từ hỗn hợp bằng dung môi, dựa
vào đặc tính của chất cần chiết và dung môi. Dung môi phân cực sẽ tách được chất
phân cực còn dung môi không phân cực sẽ tách chất không phân cực. Chúng ta có thể
chiết từ hỗn hợp dung dịch hay từ chất rắn.
Phương pháp chiết soxhlet: là một quá trình chiết
lặp đi, lặp lại nhiều lần một cách tự động. Bộ công cụ
soxhlet bao gồm một bình cầu, một thiết bị chiết và một
ống sinh hàn hồi lưu. Dung môi ở trong bình cầu được
làm bốc hơi từng phần, rồi ngưng tụ nhỏ vào chất được
chiết đựng trong một cái túi bằng giấy lọc và sau đó
chảy lại vào bình cầu. Trong quá trình đó cấu tử cần
được tách, được làm giàu thêm trong dung môi. Đặc
biệt, dụng cụ chiết soxhlet có một ống xi-phông đặt ở
bên cạnh, chỉ để dung dịch chiết chảy vào bình khi nào
mức chất lỏng trong ống chiết đạt được khuỷu trên của
ống xi-phông.
Dầu rái cho vào bộ chiết soxhlet, tiến hành chiết ở nhiệt độ sôi của dung môi,
khảo sát các yếu tố ảnh hưởng thời gian và tỉ lệ rắn lỏng.
Hình 2.3 Bộ chiết Soxhlet
2.3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian
Hiệu suất chiết các hợp chất từ mẫu rắn bằng dung môi còn phụ thuộc vào thời
gian chiết, thông thường hiệu suất chiết tăng theo thời gian và đến một lúc nào đó thì
dừng lại.
Cân một lượng khoảng 50 gam các mẫu dầu rái sau đó cho một lượng thể tích
xác định V ml như nhau của cùng một dung môi. Tiến hành chiết với nhiệt độ chiết

1
t
2
t
3
t
4
t
0
t
1
t
2
t
3
t
4
Detector
signals
Time
Detector
Sample Mobile phase
t
0
t
1
t
2
t
3

t
4
Detector
signals
Time
Detector
Pha tĩnh có thể là chất rắn được nhồi vào cột hay 1 màng film mỏng bám lên trên
bề mặt chất mang trơ, hoặc có thể tạo thành một màng mỏng bám lên mặt trong của
thành cột (cột mao quản).
Tuỳ thuộc vào bản chất pha tĩnh chia thành hai loại sắc ký khí :
 Sắc ký khí rắn (gas solid chromatography – GSC): Chất phân tích được hấp
phụ trực tiếp trên pha tĩnh là các tiểu phân rắn.
 Sắc ký khí lỏng (gas liquid chromatography – GLC): Pha tĩnh là một chất lỏng
không bay hơi.
Phương pháp này chỉ được giới hạn với chất có thể bốc hơi mà không bị phân huỷ
hay là trong khi phân huỷ cho sản phẩm phân huỷ xác định dưới thể hơi.
Có 2 loại kĩ thuật phân tích:
 Giữ cho nhiệt độ không đổi trong suốt quá trình phân tích, phương pháp này
khó tách hoàn toàn.
 Thay đổi nhiệt độ trong quá trình phân tích, phương pháp này tuy tốn thời gian
nhưng triệt để.
Nguyên tắc hoạt động
Nhờ có khí mang trong chứa trong bom khí (hoặc máy phát khí), mẫu từ buồng
bay hơi được dẫn vào cột tách nằm trong buồng điều nhiệt. Quá trình sắc ký xảy ra tại
đây. Sau khi rời khỏi cột tách tại các thời điểm khác nhau, các cấu tử lần lượt đi vào
detectơ, tại đó chúng được chuyển thành tín hiệu điện. Tín hiệu này được khuếch đại
rồi chuyển sang bộ ghi, tích phân kế hoặc máy vi tính. Các tín hiệu được xử lí ở đó rồi
chuyển sang bộ phận in và lưu kết quả (bộ hiện số, máy in hoặc máy ghi). Trên sắc đồ
nhận được, sẽ có tín hiệu ứng với các cấu tử được tách gọi là pic. Thời gian lưu của pic
là đại lượng đặc trưng cho chất cần phân tích. Diện tích pic là thước đo định lượng cho


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status