Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măg Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010 - Pdf 11

Mục Lục
Trang
Lời nói đầu 3
Phần I: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh nói chung
và của xi măng nói riêng..................................................................... ...5
I. Khái niệm và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh.....................5
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh................................................................5
2. Các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh nói chung và của
xi măng nói riêng.............................................................................................6
II. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành xi măng....................................11
1. Công nghiệp sản xuất xi măng là ngành sản xuất nguyên vật liệu..............11
2. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại.........................11
3. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi vốn đầu t lớn.......................................12
4. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi khối lợng nguyên liệu thô lớn.............12
5. Sản phẩm xi măng có nhiều loại và đợc tiêu thụ chủ yếu
vào mùa xây dựng ...........................................................................................13
III. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh
của xi măng Việt Nam....................................................................................16
1. Nhằm phân bổ hiệu quả nguồn lực khan hiếm............................................16
2. Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trờng........................................17
3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cấp bách....................18
4. Thị trờng xi măng trong khu vực ASEAN trong những năm tới
sẽ d thừa một khối lợng lớn..........................................................................19
Phần II: Đánh giá thực trạng về ngành xi măng và khả năng
cạnh tranh của xi măng Việt Nam........................................................22
I. Tình hình thị trờng xi măng....................................................................22
1. Thị trờng trong nớc..................................................................................22
2. Thị trờng ngoài nớc..................................................................................25
II. Chính sách và các quy định áp dụng cho ngành công nghiệp xi
măng Việt Nam..............................................................................................26
1. Chính sách thơng mại.................................................................................27

7. Giải pháp về hoạt động và chiến lợc của doanh nghiệp..............................73
8. Giải pháp về chính sách của Nhà nớc.........................................................75
Kết luận......................................................................................... ..............79
Tài liệu tham khảo....................................................................................80
2
Lời nói đầu
Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng
cao khả năng cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của
ngành công nghiệp Việt Nam và sự tăng trởng kinh tế của đất nớc. Yêu cầu này
đặt ra không chỉ đối với khu vực công nghiệp tham gia vào thị trờng thế giới, mà
ngay cả khu vực chỉ sản xuất hàng hoá cho thị trờng nội địa, vì tính chất giao lu
hàng hoá không còn giới hạn ở phạm vi ngoài biên giới. Đối với ngành công
nghiệp xi măng, Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng phát triển thành một trong những
ngành kinh tế mũi nhọn vì nớc ta có đủ điều kiện về nguyên, nhiên liệu, điện năng,
lao động... để phát triển. Xi măng là vật liệu cơ bản đợc sử dụng rộng rãi với khối
lợng lớn trong xây dựng để phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của đất nớc và cải
thiện đời sống của nhân dân. Đây là ngành công nghiệp có hiệu quả đầu t cao,
đóng góp vào ngân sách nhà nớc hàng năm khoảng 8-10 triệu USD của mỗi triệu
tấn xi măng.
Mặt hàng xi măng là một trong những mặt hàng thuộc "Danh mục loại trừ
tạm thời" theo lịch trình giảm thuế đối với các mặt hàng thuộc chơng trình AFTA.
Theo lịch trình giảm thuế thì thuế nhập khẩu xi măng sẽ bắt đầu giảm từ năm 2003
đến 2006 từ thuế suất 15% xuống còn 5%. Trong tơng lai, lịch trình này sẽ thực
hiện sớm hơn. Thực hiện lịch trình AFTA tuy xi măng Việt Nam có thế mạnh về
tâm lý ngời tiêu dùng trong nớc, về đờng vận tải ngắn, về chi phí nhân công thấp,
nhng chất lợng lại không ổn định, giá thành cao, kinh nghiệm tiếp thị ít, hệ thống
tổ chức và tiêu thụ mỏng manh. Bởi vậy, để chuẩn bị các điều kiện thực hiện lịch
trình AFTA đợc thuận lợi, đòi hỏi phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng
Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu t, trên cơ

đợc sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và
các khu vực liên quốc gia. Nhng những mục tiêu cơ bản lại đợc đặt ra khác nhau,
phụ thuộc vào góc độ xem xét là doanh nghiệp hay quốc gia. Trong khi đối với
một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu chủ yếu là nâng
cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các giá trị của
cả doanh nghiệp, ngành, quốc gia nh sau:"Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp,
ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế ". Định nghĩa này phù hợp vì nó phản ánh khái niệm cạnh
tranh quốc gia trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh
nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động
kinh tế, xác định cả mức thu nhập, việc làm và mức sống.
Tuy nhiên để hiểu rõ hơn về khả năng cạnh, bài viết xin giới thiệu một vài quan
niệm khác rất hữu ích để xem xét về khả năng cạnh tranh.
+ Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh cuả một doanh nghiệp là khả năng
doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp
hơn giá của nó trên thị trờng.
Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có
chất lợng tơng tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhng với chi phí thấp hơn thì đ-
ợc coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn.
+ Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng giành đợc và duy trì thị
phần trên thị trờng với mức lợi nhuận nhất định.
5
+ Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của
chính doanh nghiệp trên các thị trờng khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản
xuất của các doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng, các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau,
nhng đều có liên quan đến hai khía cạnh : chiếm lĩnh thị trờng và có lợi nhuận.

các ngành, vì lý thuyết đã giả định không tồn tại nền kinh tế có quy mô lớn, công
nghệ ở mọi nơi là đồng nhất, nguồn yếu tố quốc gia là cố định, các yếu tố nh lao
động và vốn không chuyển dịch giữa các nớc. Do đó, lợi thế so sánh chỉ mang tính
tơng đối, quyết định đến tính cạnh tranh của sản phẩm. Còn các yếu tố trực tiếp
tác động tới khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nói chung và nó càng đúng
hơn đối với sản phẩm xi măng là: Vốn, trang thiết bị và công nghệ, hình thức tổ
chức và đội ngũ cán bộ, hoạt động và chiến lợc của doanh nghiệp, chính sách của
Nhà nớc, các đối thủ cạnh tranh mới, cơ sở hạ tầng.
2.2. Vốn
Thiếu vốn là một trở ngại lớn nhất đối với việc phát triển của hơn 80% các
doanh nghiệp Việt Nam và ngành xi măng cũng không phải là một ngoại lệ. Sản
xuất xi măng cần phải đầu t một nguồn vốn lớn nên nhân tố về tài chính tác động
rất lớn và là nhân tố ảnh hởng trực tiếp đến quá trình sản xuất. Nếu thiếu vốn thì
quá trình sản xuất không tiếp diễn đợc, không thể đáp ứng đợc nhu cầu của con
ngời.
Nhìn chung nguồn vốn đầu t vào ngành công nghiệp xi măng rất đa dạng cụ
thể nh: Huy động từ nguồn trong nớc, lợi nhuận sản xuất sau thuế và khấu hao tài
sản cố định của các xí nhgiệp; đầu t trực tiếp nớc ngoài; trợ giúp phát triển từ các
tổ chức cho vay vốn song phơng và đa phơng nớc ngoài. Nguồn vốn vay bao gồm
các ngân hàng thơng mại và đầu t; các tổ chức tín dụng cũng nh các cơ quan thơng
mại. Vốn vay từ các nguồn nói trên thờng ở dới dạng ngắn, trung, dài hạn. Ngoài
ra, việc phát hành cổ phiếu cũng là một hớng để tạo nguồn vốn.
Ngày nay, nhiều doanh nghiệp dựa vào u thế vốn để nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì
phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
2.3. Trang thiết bị và công nghệ
Công cụ lao động là phơng tiện mà con ngời sử dụng để tác động vào đối tợng
lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của
công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình
tăng năng suất lao động, tăng sản lợng, tăng chất lợng sản phẩm, hạ giá thành. Nh

Trong sản xuất kinh doanh, đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp có thể sáng tạo
ra công nghệ, kỹ thuật mới và đa chúng vào sử dụng, tạo nên tiềm năng lớn cho
việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cũng chính lực lợng lao động
8
sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu của ngời tiêu dùng, làm
cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán đợc, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Đội ngũ cán bộ tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình
độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu.. ) nên tác động
trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, sự phát triển của
khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Đặc trng cơ bản
của nền kinh tế tri thức là hàm lợng khoa học kết tinh trong sản phẩm rất cao.
Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lợng lao động đối
với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.5. Hoạt động và chiến lợc của doanh nghiệp
Cạnh tranh của doanh nghiệp thờng đợc xem xét trên hai phơng diện.
Đầu tiên và cơ bản nhất là hiệu quả hoạt động. Ưu tiên hàng đầu đối với các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ là tăng hiệu quả hoạt động để cố gắng tiếp cận với thực
tiễn tốt nhất của quốc tế trong các lĩnh vực nh quy trình sản xuất, công nghệ và
khả năng quản lý.
Khía cạnh thứ hai của việc cải tiến công nghệ liên quan đến các loại hình
chiến lợc mà các doanh nghiệp đang sử dụng. Hiện nay các doanh nghiệp Việt
Nam đang tồn tại xu hớng cạnh tranh dựa trên mức lơng thấp và nguồn tài nguyên
phong phú. Các doanh nghiệp dựa nhiều vào khách hàng và đối tác nớc ngoài
nhằm cung cấp thiết kế, linh kiện, công nghệ, phân phối và thị trờng. Kết quả cuối
cùng của chiến lợc này là năng suất thấp do sử dụng nhiều lao động. Do đó các
doanh nghiệp muốn có khả năng cạnh tranh cao hơn và mức sống cao hơn thì phải
thay đổi chiến lợc này.
Lợi thế phải chuyển từ lợi thế so sánh (bằng lao động rẻ, và nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú... ) sang lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới của
các doanh nghiệp và khả năng của chúng trong việc nâng cấp hoặc thay đổi các

điều kiện về cầu... cũng ảnh hởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành xi
măng Việt Nam.
Trên đây là những yếu tố cơ bản tác động tới khả năng cạnh tranh của ngành
công nghiệp xi măng. Nhng suy cho cùng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thể
hiện ở giá thành. Vì vậy, dù các yếu tố tác động mạnh yếu khác nhau đến tính
cạnh tranh của sản phẩm nhng chúng đều đợc phản ánh ở việc giá thành có cạnh
tranh hay không.
II. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành công nghiệp xi măng.
10
Bất kỳ loại sản phẩm nào cũng có đặc điểm riêng của, đặc điểm đó tạo nên sự
khác biệt giữa các loại sản phẩm với nhau, giúp chúng ta dễ dàng phân biệt đợc nó
với sản phẩm khác. Sản xuất xi măng có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Công nghiệp sản xuất xi măng là ngành sản xuất nguyên vật liệu
Khác với các sản phẩm khác, xi măng cha phải là sản phẩm cuối cùng của quá
trình sản xuất mà nó lại chính là sản phẩm trung gian nh xi măng làm đầu vào cho
ngành xây dựng.
Nh chúng ta đã biết, quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, cơ sở vật chất
kỹ thuật yếu kém, không đồng bộ và bị chiến tranh tàn phá nặng nề, ngành xây
dựng có vai trò quan trọng trong việc khôi phục và cải tạo chúng. Vai trò nặng nề
này đòi hỏi lợng vật liệu xây dựng rất lớn, xi măng là đầu vào không thể thiếu đợc.
ở nớc ta, mạng lới giao thông đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều đoạn
đuờng chính bị sạt lở vừa dễ gây tai nạn vừa gây tắc nghẽn giao thông, xi măng
cũng là nguyên vật liệu có thể thay thế đợc nhựa đờng để làm mặt đuờng bê tông
vừa rẻ hơn vừa bền hơn. Ngoài ra, xi măng còn làm nguyên liệu đầu vào cho một
số ngành khác liên quan đến xây dựng.
Sản xuất xi măng phải gắn liền với khu nguyên liệu nh vôi đá, than, điện...để
tận dụng tối đa và khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có, nếu xa nguồn nguyên liệu
thì khi sản xuất phải vận chuyển cồng kềnh phức tạp, hao phí nhiều và tốn kém.
2. Sản xuất xi măng là ngành sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại.
Công nghệ sản xuất xi măng đã xuất hiện cách đây gần một thế kỷ. Mặc dù

năm. Hiện nay ngành xi măng đang thiếu vốn để đầu t phát triển, đây cũng là khó
khăn lớn nhất mà ngành xi măng đang vấp phải, vậy cần phải huy động đủ vốn
đầu t và tăng nhanh vòng quay của vốn.Việc huy động vốn cho đầu t phải huy
động từ nhiều nguồn, kể cả trong nớc và ngoài nớc.
4. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi khối lợng nguyên liệu thô lớn
Nguyên liệu cho sản xuất xi măng bao gồm:đá vôi, đất sét và một ít (2-5%) các
phụ gia điều chỉnh nh: quăng sắt, laterit, cát... và một ít phụ gia puzơlan và thạch
cao để pha trộn điều chỉnh trong với quá trình nghiền với clinke là sản phẩm nung
hỗn hợp các nguyên liệu để thành xi măng theo mác hoặc theo chủng loại của
khách hàng theo yêu cầu. Tỷ lệ % phụ gia phuzơlan sẽ tuỳ theo chủng loại xi
măng. Năng lợng sử dụng có thể là than, dầu và ga. Những vật t mau mòn chóng
hỏng chính là phụ tùng thay thế, bi đạn nghiền, vật liệu chịu lửa và bao giấy. Đặc
điểm này đặt ra yêu cầu đối với các nhà máy xi măng là phải đợc bố trí gần nguồn
12
nguyên liệu chủ yếu (đá vôi, đất sét) vì nếu phải vận chuyển xa nguồn nguyên liệu
này thì rất cồng kềnh và tốn kém.
5. Sản phẩm xi măng có nhiều loại và đợc tiêu thụ chủ yếu vào mùa xây dựng
5.1. Về sản phẩm
Xi măng là loại vật t chiến lợc quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó là nhu
cầu không thể thiếu đợc của sản xuất và tiêu dùng xã hội, xã hội càng phát triển
thì nhu cầu tiêu dùng xi măng càng lớn, nhất là trong điều kiện nớc ta hiện nay
đang ở trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền sản xuất.
Để sản phẩm xi măng có thể cạnh tranh về chất lợng ngoài việc giữ vững chất
lợng xi măng còn phải dần dần nâng cao chất lợng nhằm thoả mãn tốt nhu cầu tiêu
thụ của ngời tiêu dùng. Đối với xi măng lò quay việc bảo đảm các chỉ tiêu kỹ thuật
sẽ đảm bảo sản xuất xi măng ra với chất lợng tốt.
Sản phẩm xi măng còn có rất nhiều loại, mỗi công trình ở các điều kiện khí
hậu, môi truờng và vị trí khác nhau đòi hỏi có các loại xi măng chất lợng và hoạt
tính khác nhau. Trong quá trình sử dụng xi măng các nhà xây dựng đã phát hiện ra
rằng: nếu thêm các loại gia phụ khác nhau và tỷ lệ khác nhau thì có đuợc các loại

xuất theo tiêu chuẩn của Nhà nớc, tuy nhiên do đặc tính nguyên liệu của các nhà
máy khác nhau nên tính chất của sản phẩm có khác nhau chút ít nhng không ngoài
tiêu chuẩn quy định và không ảnh hởng tới chất lợng của sản phẩm.
5.2. Về thị trờng tiêu thụ
Xi măng là loại sản phẩm đợc tiêu thụ theo mùa xây dựng, hiện nay thị trờng
tiêu thụ của xi măng rộng khắp trên cả nớc, tốc độ tiêu thụ ở miền Bắc đang chậm
dần, tích cực đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ xi măng ở miền Trung và miền Nam, vì
vậy ngành xi măng đang cố gắng vận chuyển xi măng vào các vùng sâu, xa trong
cả nớc nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của nhân dân.
Thị trờng tiêu thụ xi măng cũng đợc phát triển theo sự phát triển của nền kinh
tế ở từng khu vực.
Ngoài thị trờng xi măng trong nớc xi măng còn vơn tới xuất khẩu sang các n-
ớc Lào, Campuchia dới hình thức " nghị định th" có nghĩa là việc mua bán xi
măng Việt Nam có trách nhiệm chuyên trở xi măng sang nớc bạn còn việc thanh
toán thì giữa hai chính phủ đàm phán với nhau, có thể là viện trợ hoặc thanh toán
nợ (giai đoạn này là từ 1992 về trớc).
Còn từ năm 1992 đến năm 1998 cùng với quá trình công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nớc cần thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình lớn phục vụ
sản xuất và đời sống nh YALY,thủy điện sông Đà... khả năng cung ứng các nhà
14
máy xi măng trên toàn quốc mặc dù phát huy hết công suất của mình vẫn không
đáp ứng nhu cầu đó. Hàng năm chúng ta phải nhập một số lợng tơng đối lớn xi
măng từ các nớc trong khu vực. Do đó sản phẩm xi măng ở giai đoạn này chủ yếu
có mặt ở thị trờng trong nớc. Từ năm 1999 Tổng công ty xi măng Việt nam đã bắt
đầu thâm nhập thị trờng các nớc nh Lào,Campuchia.
Triển vọng sau năm 2000 cùng với việc mở rộng các nhà máy xi măng lớn
hiện có nh Hoàng Thạch, Hải Phòng, Bỉm Sơn, Hà Tiên...xây dựng một số nhà
máy xi măng địa phơng. Tổng công ty xi măng Việt Nam dới sự chỉ đạo của Nhà
nớc cụ thể là Bộ Xây dựng đã liên doanh liên kết với nhiều công ty có tiếng của n-
ớc ngoài xây dựng mới các nhà máy xi măng nh: Chinfon liên doanh với Đài

ngời ngày càng đa dạng và tăng không có giới hạn. Điều này phản ánh quy luật
khan hiếm. Quy luật khan hiếm bắt buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời
chính xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất nh thế nào ? và sản xuất cho ai? vì
thị trờng chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản
phẩm (dịch vụ) với số lợng và chất lợng phù hợp. Mọi doanh nghiệp trả lời không
đúng ba vấn đề trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để sản xuất sản
phẩm không tiêu thụ đợc trên thị trờng - tức kinh doanh không có hiệu quả, lãng
phí nguồn lực sản xuất xã hội - sẽ không có khả năng tồn tại.
Mặt khác, sự khan hiếm về nguồn lực đặt ra một yêu cầu là không thể phát
triển tất cả các ngành cùng một lúc đợc. Nếu tập trung phát triển các ngành không
có lợi thế thì dẫn đến dàn trải nguồn lực, không đảm bảo phát triển bền vững. Do
đó, chỉ tập trung vào sản phẩm có tính cạnh tranh mới đảm bảo cho sự phát triển
lâu dài của sản phẩm. Công nghiệp sản xuất sản phẩm xi măng ở Việt Nam có lợi
thế so sánh (nguồn nguyên, nhiên liệu phong phú và giá lao động rẻ) nhng làm sao
phải biến lợi thế này thành lợi thế cạnh tranh, để duy trì sự tồn tại và phát triển lâu
dài của sản phẩm mới là câu hỏi mà từng doanh nghiệp, từng ngành phải đi tìm
câu trả lời.
2. Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trờng
Các học thuyết về kinh tế thị trờng hiện đại dù thuộc trờng phái nào đi nữa
cũng đều khẳng định: với tính cách là một động lực quan trọng nhất đối với sự
phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh tranh chỉ tồn tại và xuất hiện trong nền kinh
tế thị trờng.
Trong điều kiện của kinh tế thị trờng, lợi nhuận là động lực, là mục tiêu và là
phơng tiện tồn tại của chủ thể kinh doanh. Mục đích tối đa hoá lợi nhuận của các
chủ thể kinh doanh đã gây sức ép buộc họ phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
16
của chính mình nh: vốn, lao động, trình độ kỹ thuật... Chính mục đích này đã
khuyến khích, thúc đẩy họ nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới để có thể giảm
đợc chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, để đáp ứng ngày càng
tốt hơn thị hiếu và nhu cầu của ngời tiêu dùng để họ hớng tới tối đa hoá lợi ích ng-

vậy, sức ép về nâng cao chất lợng và hạ giá thành sẽ ngày càng trở nên gay gắt.
Nếu tính tới quá trình mở của và hội nhập trong phạm vi Hiệp định thơng mại Việt
- Mỹ, trong khuôn khổ APEC,...thì sức ép này còn nặng nề hơn. Do đó, con đờng
duy nhất là phải nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh.
* Ngành xi măng Việt Nam muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao khả
năng cạnh tranh.
+ Đối với các doanh nghiệp trong ngành xi măng nớc ta vấn đề đặt ra trong
quá trình hội nhập là: làm thế nào để tồn tại và phát triển? làm thế nào để bảo vệ
thị trờng trong nớc và hớng tới xuất khẩu, trong khi phải đối mặt với nhiều đối thủ
cạnh tranh nớc ngoài có tiềm lực về mọi mặt mạnh hơn ta nh Thái lan, Indonesia,
Trung quốc... Do đó, nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề sống còn các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành xi măng nói riêng.
+ Ngành xi măng Việt Nam hiện nay cạnh tranh dựa trên lợi thế nguồn tài
nguyên phong phú và lao động rẻ. Những lợi thế này khi hội nhập sẽ bị hạn chế lý
do là phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào. Do đó, cạnh tranh theo hớng
này có phần thụ động và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Để đứng vững trong cạnh
tranh thì đối với tất cả các doanh nghiệp (ngành) nói chung và ngành xi măng nói
riêng thì cạnh tranh phải dựa trên lợi thế có đợc nhờ nâng cao năng lực trong việc
cắt giảm chi phí bình quân và hợp lý hoá quy trình sản xuất theo hớng thứ hai này
chủ động hơn và có tác dụng lâu dài.
Hiện nay theo tôi, ngành xi măng Việt Nam khả năng cạnh tranh yếu (do chỉ
dựa vào lợi thế so sánh là nguồn tài nguyên phong phú và giá lao động rẻ) trong
khi phải đối mặt với các nhà cung cấp nớc ngoài, họ có u thế hơn về nhiều mặt
nh kinh nghiệm cạnh tranh, năng lực tài chính, giá cả vv... Xi măng là một trong
những mặt hàng thuộc danh mục loại trừ tạm thời theo lịch trình giảm thuế nhập
khẩu đối với mặt hàng thuộc chơng trình AFTA. Từ năm 2003 đến năm 2006, xi
măng phải giảm thuế suất từ 15% xuống còn 5%. Với các nhà máy xi măng Việt
Nam đây là một thách thức rất lớn để cạnh tranh, giành thị phần khi có mặt các
nhà cung cấp nớc ngoài. Vậy ngay từ bây giờ các nhà sản xuất xi măng trong nớc
cần tăng sức cạnh tranh, chủ động hội nhập thành công.

Indonesia
Tổng sản lợng 24,59 30,28 32,96 35,35 37,98 40,88
Tổng nhu cầu nội địa 19,01 19,80 21,00 22,90 25,20 27,70
Malaysia
Tổng sản lợng 11,19 13,98 16,63 16,63 16,63 18,63
Tổng nhu cầu nội địa 12,79 10,30 11,33 12,46 13,71 15,08
Philipin
Tổng sản lợng 12,58 15,21 15,27 16,70 18,27 19,99
Tổng nhu cầu nội địa 1,20 13,21 14,27 15,70 17,28 18,99
Sigapo
Tổng sản lợng 5,00 1,20 1,20 1,20 1,20 1,20
Tổng nhu cầu nội địa 23,90 4,50 4,50 5,00 5,00 5,00
19
Thái lan
Tổng sản lợng 17,90 24,50 26,30 28,00 29,30 32,27
Tổng nhu cầu nội địa 15,50 18,50 20,30 22,00 23,30 24,26
Việt Nam
Tổng sản lợng 11,00 12,20 13,60 15,20 17,00 19,55
Tổng nhu cầu nội địa 11,00 12,10 13,30 14,70 16,60 18,45
Tổng
Tổng sản lợng 84,93 97.73 106,1 113,1 120,4 128,7
Tổng nhu cầu nội địa 75,31 78,7 85,1 78,6 101,5 110,8
(Nguồn: Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu T)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, trong một vài năm nữa nhu cầu xi măng sẽ
không tăng mạnh nữa nên cung sẽ vợt cầu rất nhiều trong khu vực. Theo kết quả
dự báo, mỗi năm thừa khoảng trên 10 triệu tẩn trong khu vực. Có thể nhận thấy
khu vực đang chuyển một cách rõ ràng từ tình trạng thiếu hụt sang hiện trạnh d
thừa năng lực sản xuất, do hầu hết các nớc ASEAN đang đua nhau xây dựng các
nhà máy xi măng mình trên quy mô lớn. Có ngời băn khoăn tại sao các nhà sản
xuất xi măng lại muốn mở rộng sản xuất trong khi toàn khu vực phải gánh chịu và

nghiệp xi măng đợc sự u tiên đầu t phát triển và đợc xác định là một trong những
ngành trọng điểm. Cùng với quá trình CNH - HĐH đất nớc , xi măng đợc dùng
trong xây dựng rất nhiều, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, vấn đề tiêu thụ xi
măng đã đợc Nhà nớc quan tâm thích đáng.
Đặc điểm của thị trờng tiêu thụ xi măng nớc ta là biến động theo mùa mùa
thời tiết, mùa của từng khu vực. Do về mùa có ma lũ nên tốc độ xây dựng bị
chậm lại và mùa hanh khô ráo tốc độ xây dựng lại lớn hơn. Với sự đổi mới của
nền kinh tế thực hiện phơng hớng của ngời sản xuất gắn với ngời tiêu dùng, bớc
sang năm 1991 nhu cầu xi măng tại Việt Nam có sự tăng trởng đột biến, tốc độ
tăng trung bình 21,61%/năm trong khi đó sản xuất cũng đã có những thay đổi t-
ơng đối lớn, mức tăng trởng bình quân 15,5%/ năm song vẫn cha đáp ứng đợc mức
yêu cầu.
Tuy nhiên, xi măng là loại sản phẩm sản xuất ra phải tiêu thụ trong một thời
gian nhất định (nếu không sẽ vón cục hoặc đông cứng, chế biến lại thì tốn kém)
21
các cơ sở sản xuất xi măng ở nớc ta lại phân bố không đều, tập trung phần lớn
miền Bắc do có nguồn nguyên liệu, nhu cầu sử dụng xi măng giữa các khu vực lại
khác nhau theo mùa vụ, do đó bảo đảm nhu cầu bình ổn giá cả là công việc rất khó
khăn phức tạp, tình hình thừa thiếu cục bộ là điều không tránh khỏi.
Kết quả sản xuất và tiêu thụ xi măng thời kỳ 1990 - 2000 đợc mô tả nh sau:
Bảng 2: Kết quả sản xuất và tiêu thụ xi măng giai đoạn 1990 - 2000
Đơn vị: triệu tấn
Năm Sản xuất Tiêu thụ Nhập khẩu
1990 2,55 2,55 0
1991 2,99 3,01 0,02
1992 3,86 3,88 0,02
1993 4,22 4,45 0,53
1994 4,62 4,16 1,54
1995 5,24 7,2 1,28
1996 6,0 8,2 1,3

cục, đa xi măng, Clinker từ miền Bắc vào miền Trung, Nam, vùng sâu, vùng xa.
Do vậy, giá cả trên thị trờng tơng đối ổn định trong giai đoạn từ năm 1996 -1999.
điều đó đợc thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3: Giá xi măng trung bình trong nớc giai đoạn 1996 -1999
Đơn vị :Đồng / tấn (giá hiện hành)
Năm 1996 1997 1998 1999
Giá bán trung bình trong
nớc (XI MăNG Bao PC
30)
930.000 900.000 883.000 843.000
(Nguồn :Vụ công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu t)
Mặc dù giá cả trên thị trờng thời gian qua đã tơng đối ổn định nhng bắt đầu
từ năm 1997 trở đi khả năng sản xuất đã vợt nhu cầu ngời tiêu dùng. Bình quân
mỗi năm tổng Công ty xi măng lại phải dự trữ trên dới 1 triệu tấn. Nếu tạm tính
giá thành sản xuất bình quân 50.000 đồng/tấn thì ngành xi măng tồn đọng số vốn
tới khoảng 500 tỉ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là lợng xi măng sản xuất ra vợt nhu
cầu ngời tiêu dùng. Nhng không loại trừ chất lợng xi măng quá kém, nhất là sản
phẩm lò đứng, trong khi giá bán lại cao. Chính vì thế, xi măng vẫn đợc lén lút
nhập lậu các tỉnh biên giới. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng là từ khâu quy
hoạch đầu t xây dựng các cơ sở sản xuất xi măng. Vào những năm 1989 - 1993
nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nớc lên cao do cơn sốt xây dựng. Từ thực tế này,
các nhà làm quy hoạch dự báo mức tăng nhu cầu sử dụng xi măng giai đoạn 1993
-2000 là 22%/năm. Nh vậy, theo tính toán đến năm 2000, sản lợng xi măng cả nớc
phải đạt 20 triệu tấn/năm, đến năm 2010 tăng lên 40 triệu tấn/năm. Ngay từ thời
kỳ ấy nổi lên cơn sốt xây dựng nhà máy xi măng, lắp đặt các dây chuyền sản xuất
23
xi măng mà phần lớn là các loại lò đứng mua từ Trung Quốc về. Lúc này, giá
Clinker trên thế giới lại hạ, để sớm có sản phẩm ngời ta nhập khẩu đại trà Clinker
của các nớc lân cận, trong khi nguyên liệu để nung Clinker là đá vôi và than đá ở
ta rất sẵn và rẻ. Đây là yếu tố làm giá xi măng tăng lên. Mặt khác lò đứng không

nhằm mở rộng thị trờng và phục vụ mục tiêu chiến lợc lâu dài, Tổng Công ty xi
măng Việt Nam có kế hoạch xuất khẩu xi măng sang các nớc láng giềng, đặc biệt
là Lào và Campuchia. Năm 1999, Tổng Công ty xi măng Việt Nam bớc đầu thâm
nhập thị trờng này và đã xuất khẩu đợc trên 20.000 tấn.
Do các Nhà máy của Tổng Công ty xi măng Việt Nam nằm sâu trong nội địa,
không có cảng nớc sâu nên khả năng cạnh tranh trong việc xuất khẩu tới các thị tr-
ờng khác gặp rất nhiều khó khăn do chi phí cao vì phải trung chuyển và bốc dỡ
nhiều lần. Vì vậy, trong kế hoạch chiến lợc của mình, Tổng Công ty sẽ cố gắng
duy trì khả năng xuất khẩu sang Lào và Campuchia. Tuy nhiên cần có các biện
pháp hữu hiệu khác nh giảm giá thành, đầu t các Nhà máy mới tại các vị trí thuận
lợi về giao thông thủy nhằm duy trì và phát triển thị trờng xuất khẩu quen thuộc và
có khả năng cạnh tranh tại thị trờng khác.
II. Chính sách và những quy định của Nhà nớc đối với ngành
xi măng
Tình hình phát triển thị trờng xi măng trong thời gian qua, đã khẳng định sự
đúng đắn việc thực hiện chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trờng của Đảng và Nhà nớc ta. Đồng thời cũng làm nổi bật vai trò quản lý
điều tiết thị trờng của Nhà nớc, thông qua việc ban hành và hớng dẫn các cơ chế
chính sách kinh tế đối với sản xuất, lu thông, cung ứng và tiêu thụ xi măng.
Các chính sách và quy định áp dụng cho ngành công nghiệp xi măng là:
+ Hệ thống pháp luật cơ bản.
+ Các chính sách đầu vào và đầu ra
- Cấp giấy phép đầu t cho các dự án đầu t trong nớc
- Cấp giấy phép đầu t nớc ngoài.
- Chính sách đầu ra
+ Quyền sử dụng đất
+ Chính sách lao động
+ Chính sách thuế
+ Chính sách ngoại thơng
+Chính sách giá


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status