Luận văn " VẤN ĐỀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU SANG EU " - Pdf 11



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
Khoá luận tốt nghiệp
VẤN ĐỀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG, MÔI
TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT
KHẨU SANG EU
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN :Th.s Nguyễn Thanh Bình
SINH VIÊN THỰC HIỆN : Nghiêm Quỳnh Nga
Lớp A2 – K38A – KTNT

Hà nội, năm 2003

II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối với hàng hoá
lưu thông trên thị trường 5
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN 5
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 7
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng 9
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị
trường 19
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường 19
2. Bao bì và phế thải bao bì 22
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label) 25
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ môi
trường 28
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu 31
1. Các bộ quy tắc ứng xử 31
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000 33
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2
K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG EU DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA CÁC TIÊU CHUẨN VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG, VÀ XÃ HỘI. 36
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU dưới tác
động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội 36
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU 36
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc
đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường & xã hội. 46
II. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang
EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường

CENELEC

Comité Européen de Normalisation -
European Committee for Electrotechnical
Standardization Electrotechnique
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật
điện tử châu Âu
CODEX Theo tiếng Latin là “Food Code” Ủy ban quốc tế về thực phẩm
CoC Code of Conduct Quy tắc ứng xử
CSR Corporation Social Responsibility Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp

DIN

(Deutsches Institut fuer Normung -
German Institute for Standardisation)
Tiêu chuẩn của Đức
ECB European Central Bank Ngân hàng Trung Ương châu Âu
ECSC European Coal and Steel Community Cộng đồng than thép châu Âu
EEA European Economic Area Khu vực kinh tế châu Âu
EEC European Economic Community Cộng đồng kinh tế châu Âu
EFTA European Free Trade Association Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu

EMAS Ecological Management and Audit
Scheme
Chương trình kiểm định và quản
lý sinh thái.
EMU European Monetary Union Liên minh tiền tệ châu Âu
EN European Standard Tiêu chuẩn châu Âu
ETSI


Uỷ ban điện quốc tế
ILO International Labour Organization Tổ chức lao động quốc tế
ISO International Organisation for
Standardization
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn
hoá.
ITU International Telecommunication Union Tiêu chuẩn quốc tế về viễn thông.

LEFASO Vietnam Leather and Footwear
Association
Hiệp hội da giày Việt Nam
NAFTA North American Free Trade Agreement Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NF Necrotizing Fasciitis Kháng sinh NF
PU Polyurethane Nhựa PU
SAI Social Accountability International Tổ chức về tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội SAI
TPU Thermoplastic Polyurethane Nhựa TPU Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
LỜI NÓI ĐẦU
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Chủ trương này đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, Nghị quyết 01 NQ/TW của Bộ Chính trị và một lần nữa khẳng định
trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nhằm thực hiện mục tiêu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thực hiện chủ
trường của Đảng, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường mở rộng và đa dạng hoá thị
trường xuất khẩu.

động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của các nước thứ ba (trong đó có Việt Nam)
vào thị trường EU
+ Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định trên của hàng Việt Nam xuất khẩu
sang EU.
+ Đề xuất giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về chất lượng, môi
trường và xã hội của EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này.
Đối tượng nghiên cứu:
Việc tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường và xã hội của hàng Việt
Nam khi xuất khẩu sang EU
Phạm vi nghiên cứu:
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang EU (giới hạn đi sâu vào 4 nhóm hàng
chủ lực: giày dép, dệt may, nông sản và thuỷ sản)
Nội dung của khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và các phụ lục, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Các quy định/ tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của
EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU dưới tác động
của các quy định/tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.
Chương III: Một số giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng,
môi trường và xã hội.
Đây là một đề tài có tính thời sự và mới mẻ cả về lý luận cũng như thực tiễn,
đồng thời do kinh nghiệm và trình độ bản thân còn hạn chế nên khoá luận không
tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Em rất mong nhận được
sự đánh giá góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè và những ai quan tâm đến vấn đề này
để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Hà Nội, tháng 12 năm 2003

khoảng 20% GDP toàn thế giới, đứng sau Mỹ (~ 11.200 tỷ USD) và trên Nhật Bản
(~ 4.500 tỷ USD). Từ 1997 đến nay, EU vẫn giữ được ổn định và duy trì tăng
trưởng GDP ở mức độ tương đối cao (8.700 tỷ USD năm 2002)
[3]
. Giá trị thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 2
mại của EU cũng chiếm khoảng 22.6% giá trị thương mại thế giới (nếu tính cả
thương mại trong khối, EU chiếm 40% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu trên toàn thế
giới), vượt chỉ tiêu tương ứng của Mỹ và Nhật Bản (20,47% và 8,1%). Vai trò quan
trọng của EU như một khối thương mại sẽ còn tăng lên với việc mở rộng diễn ra
trong vòng 5 - 10 năm tới, khi mà một vài nước Đông Âu được kết nạp làm thành
viên mới của EU.
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia với khoảng 380 triệu dân.
Điều này có nghĩa rằng thị trường EU lớn gấp ba lần thị trường Nhật Bản (với ~ 127
triệu dân), lớn hơn thị trường Mỹ khoảng 40% (với ~ 280 triệu dân) và xấp xỉ toàn
bộ khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), với khoảng 400 triệu dân
[3]
. Thêm
vào đó, thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc “Hiệp hội mậu dịch tự do
châu Âu”(EFTA) gồm Na Uy, Ai-len, Thụy Sĩ và Liechtenstein, tạo thành khu vực
kinh tế châu Âu (EEA).
EU là một thị trường thống nhất cho phép tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ,
vốn và lao động giữa các nước thành viên. Trong thị trường thống nhất này, hàng
hoá được sản xuất tại hoặc được nhập khẩu vào một quốc gia thành viên thì cũng có
thể được di chuyển sang các quốc gia thành viên khác mà không gặp phải một hạn
chế nào. Tiền đề cho sự di chuyển tự do này là sự thống nhất về luật lệ và quy định
liên quan đến hàng hoá sản xuất trong nước hoặc hàng hoá nhập khẩu. Với đặc điểm

không có nguồn gốc EU, phần lớn đến từ Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Tư cũ, đang
sinh sống tại đây. Sự đa dạng tương đối về văn hoá không chỉ giữa các quốc gia
thành viên mà còn nằm trong chính nội bộ mỗi quốc gia. Ví dụ như những người ở
miền Nam nước Đức có nếp sống và tư duy khác với người sống ở vùng công
nghiệp Ruhr, và những người này lại khác với người ở vùng Đông Đức cũ. Tại Tây
Ban Nha cũng vậy, người xứ Bascơ miền bắc có nền văn hoá khác căn bản với
những người ở các xứ khác
Cùng với sự khác biệt về nhân khẩu học và văn hoá, thói quen tiêu dùng và
hành vi mua sắm cũng khác nhau giữa các nước thành viên EU. Tại những khu vực
ở phần tây bắc EU, do sung túc hơn nên người dân có thường sử dụng phần lớn thu
nhập vào việc mua sắm nhà cửa, các đồ dùng đắt tiền, giải trí, du lịch, chăm sóc y
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 4
tế. Vì thế mà chất lượng của hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho các quốc gia thuộc
vùng này thường được chú trọng hơn. Tính đa dạng trong sự thống nhất của thị
trường EU cho chúng ta hiểu cụm từ “người tiêu dùng châu Âu”nói chung không
tồn tại. Các quốc gia bên ngoài khối muốn thâm nhập hiệu quả vào các thị trường
thành viên EU không thể không tính đến những nét đặc trưng của từng thị trường.
EU là thị trường có mức sống cao, yếu tố chất lượng, sức khoẻ và an toàn cho
người tiêu dùng luôn được đặt lên hàng đầu thông qua việc đặt ra những yêu cầu rất
nghiêm ngặt đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Có thể lấy ví dụ về quy chế
đảm bảo an toàn của EU đối với một số sản phẩm tiêu dùng như: các loại thuỷ hải
sản phải được kiểm tra chặt chẽ thành phần tạp chất và dư lượng kháng sinh, đồng
thời quá trình nuôi trồng, khai thác, chế biến và vận chuyển cũng phải tuân thủ các
quy định nhằm không gây tác động xấu đến môi trường; đối với vải lụa, EU lập ra
một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay
lụa được bán ra trên thị trường, và khi đó bất cứ loại vải hay lụa nào được lưu hành
cũng phải ghi rõ mã hiệu của những loại sợi chủ yếu kèm theo tỷ lệ % hoặc cấu
thành chi tiết của sản phẩm v v

triển, nền sản xuất xã hội càng đạt đến trình độ cao, nhu cầu của con người càng
phức tạp thì vấn đề tiêu chuẩn hoá lại càng trở nên cần thiết hơn. Chính vì vậy mà
hoạt động tiêu chuẩn hoá ở các quốc gia phát triển thường được tiến hành rất quy củ
và chặt chẽ.
1.1 Hoạt động tiêu chuẩn hoá tại thị trường EU
Với thị trường EU, tiêu chuẩn hoá có ý nghĩa mới từ khi Cộng đồng châu Âu
bắt đầu quá trình hoà hợp các tiêu chuẩn liên quan đến pháp luật để đảm bảo sự an
toàn, sức khoẻ người tiêu dùng, đảm bảo sản xuất thân thiện với môi trường và
trách nhiệm xã hội. Kết quả là việc đáp ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một điều
kiện quan trọng để thâm nhập thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương
mại, tự do lưu thông hàng hoá thì làm hoà hợp các tiêu chuẩn giữa các quốc gia trở
nên cực kỳ cần thiết. Bởi vậy, EU đang tạo ra những tiêu chuẩn thống nhất cho toàn
châu Âu trong các khu vực sản xuất sản phẩm mũi nhọn để thay thế hàng ngàn các
tiêu chuẩn khác nhau của các quốc gia. Nhìn chung các mức độ yêu cầu tối thiểu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 6
cho toàn châu Âu đang và sẽ được đặt ra trong các năm tới. Mỗi nước thành viên
đều được phép đặt ra các quy định bổ sung để bảo vệ cho nền công nghiệp trong
nước. Tuy nhiên bất cứ sản phẩm nào phù hợp với các quy định tối thiểu đều được
phép tự do lưu thông trong EU.
Có thể lấy ví dụ về mức độ hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn EU ở
Đức - một nền kinh tế phát triển cao trong EU. Ở Đức, tất cả các tiêu chuẩn châu
Âu (EN) đều tự động trở thành tiêu chuẩn DIN EN (Deutsches Institut fuer
Normung) của nước này. Các tiêu chuẩn quốc gia lần lượt bị cắt giảm dần, thể hiện
qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: SỐ LƯỢNG TIÊU CHUẨN CỦA ĐỨC SO SÁNH VỚI TIÊU CHUẨN EU

là phù hợp với tiêu chuẩn ISO, còn các tiêu chuẩn EU về viễn thông thì hầu như
hoàn toàn phù hợp với ITU”
[5]
. Những tiêu chuẩn quốc tế mà EU lấy lại nguyên
thành tiêu chuẩn của mình mà không sửa đổi sẽ mang các tên như EN ISO, EN
IEC cùng với số hiệu của tiêu chuẩn. Còn các quốc gia thành viên khi đưa nguyên
các tiêu chuẩn này vào thành tiêu chuẩn của mình thì các tiêu chuẩn này lúc đó sẽ
mang tên như DIN EN ISO (Đức), BS EN ISO (Anh) cùng với số hiệu tiêu
chuẩn. Qua đó có thể thấy rằng hài hoà tiêu chuẩn với quốc tế đã và đang trở thành
xu hướng trong việc xây dựng tiêu chuẩn châu Âu. Và như vậy, con đường đúng
đắn và lâu bền cho các quốc gia muốn đẩy mạnh phát triển thương mại thông qua
việc đáp ứng được các tiêu chuẩn của các quốc gia khác nói chung và khối EU nói
riêng là hoà hợp tiêu chuẩn trong nước với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời đẩy
mạnh việc đưa các tiêu chuẩn đó áp dụng trong thực tiễn. Tiêu chuẩn Quốc tế có thể
được coi như một cái đích chung và càng trở nên quan trọng khi xu thế khu vực
hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra sôi nổi.
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”
[6]
.
Chất lượng không tự sinh ra, chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó
là kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau.
Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải quản lý một cách đúng đắn các yếu
tố này, và hoạt động đó được gọi là “quản lý chất lượng”. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 8
do Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO) ban hành nhằm mục đích đưa ra một
mô hình được chấp nhận ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng và có

- Lập kế hoạch để đạt được mục tiêu về chất lượng (hoạch định chất lượng)
- Các hoạt động quản trị của lãnh đạo về: thông tin nội bộ, sổ tay chất lượng,
kiểm soát tài liệu, kiểm soát hồ sơ chất lượng
- Xem xét của lãnh đạo: xem xét định kỳ hệ thống quản lý chất lượng để đảm
bảo hệ thống luôn thích hợp, thoả đáng và có hiệu lực.
3. Quản lý nguồn lực
- Tổ chức phải xác định và cung cấp các nguồn lực cần thiết để triển khai,
cải tiến các quá trình và thoả mãn khách hàng.
- Đảm bảo cho nguồn nhân lực được phân công lao động hợp lý; được đào
tạo, cung cấp các phương tiện làm việc môi trường làm việc phù hợp.
4. Tạo sản phẩm
- Hoạch định các quá trình tạo sản phẩm
- Các quá trình liên quan đến khách hàng
- Kiểm soát quá trình mua hàng, kiểm tra xác nhận sản phẩm mua vào
- Kiểm soát hoạt động sản xuất và dịch vụ
- Kiểm soát phương tiện đo lường và theo dõi
5. Đo lường, phân tích và cải tiến
- Xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường
- Đo lường,theo dõi sự thoả mãn của khách hàng, các quá trình và sản phẩm
- Kiểm soát sự không phù hợp với các yêu cầu
- Phân tích dữ liệu để xác định sự phù hợp hay không phù hợp.
- Cải tiến: hoạch định các quá trình cải tiến, tiến hành khắc phục và có các
hành động phòng ngừa.
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng
3.1 Nhãn hiệu CE đối với các sản phẩm công nghiệp chế tạo
Nhãn hiệu CE là nhãn hiệu dành cho các sản phẩm trong nội bộ thị trường
hoặc bên ngoài EU được nhập vào thị trường này. Nhãn hiệu CE biểu trưng cho sự
phù hợp của hàng hoá được gắn nhãn với các yêu cầu mà
EU đặt ra cho người sản xuất loại hàng hoá đó. Đến nay,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

có độ rủi ro nội tại thấp nhất, trong khi sản phẩm thuộc Modul H là rủi ro cao nhất.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm Modul A, tức là có độ rủi ro nội tại thấp, nhà
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang
11
sản xuất có thể quyết định sản phẩm của mình có tuân thủ các chỉ thị, quy định và
tiêu chuẩn của châu Âu đối với hàng hoá đó hay không. Khi đó, nhà sản xuất có thể
tự công bố tiêu chuẩn và gắn nhãn CE lên sản phẩm của mình theo các bước như
sau:

- Thứ nhất, xác định các yêu cầu về tiêu chuẩn EN đối với sản phẩm
- Thứ hai, xác định nội dung tiêu chuẩn sản phẩm dựa trên yêu cầu ở bước
thứ nhất. Ví dụ, sản phẩm quạt trần cần đáp ứng tối thiểu hai yêu cầu về
hiệu điện thế (LVD) và sự tương thích điện từ (EMC). Đối với hai yêu cầu
này, tiêu chuẩn mà sản phẩm quạt trần cần đáp ứng là EN 60335-1 hoặc EN
60335-2-80 (đối với LVD) và EN 55014-1 (đối với EMC).
- Thứ ba, chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật để minh hoạ sự phù hợp tiêu chuẩn của sản
phẩm bao gồm: tài liệu thiết kế, sản xuất, báo cáo kiểm tra
- Thứ tư, chuẩn bị bản công bố phù hợp tiêu chuẩn.
- Thứ năm, gắn dấu hiệu CE lên sản phẩm.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm cao hơn Modul A, thủ tục dán nhãn phức tạp
hơn vì phải có một tổ chức chuyên nghiệp (tổ chức kiểm định) kiểm tra xem sản
phẩm có tuân thủ với các quy định căn bản không, có được dán nhãn CE lên không.
3.2 Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy
trọng yếu (HACCP) trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm:
Hiện nay, một phong trào rộng lớn bảo vệ người tiêu dùng đang phát triển ở
châu Âu. Phong trào này dựa vào việc phòng ngừa các rủi ro, bảo đảm vệ sinh an
toàn và chất lượng thực phẩm. Liên minh châu Âu đã yêu cầu các cơ sở chế biến
thực phẩm nhập khẩu vào EU từ đầu thập niên 90 phải áp dụng hệ thống thực hành

hệ thống.
HACCP không loại trừ được tất cả các mối nguy, tuy nhiên nó cho phép hạn
chế các rủi ro tại các điểm trọng yếu, nghĩa là những giai đoạn quyết định tính an
toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất.
 7 nguyên tắc của HACCP:
- Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích và xác định tất cả các nguy cơ có thể
xảy ra đối với sản phẩm tại tất cả các khâu của dây chuyền sản xuất.
- Nguyên tắc 2: Xác định các ‘điểm kiểm soát tới hạn’ (CCP - Critical
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang
13
Control Point) có khả năng xuất hiện rủi ro để hạn chế chúng hoặc giám sát
chúng.
- Nguyên tắc 3: Xác định độ sai lệch được phép tối đa theo tiêu chuẩn của
mỗi ‘điểm kiểm soát tới hạn’.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập một hệ thống theo dõi, bao gồm cả lịch biểu, cho
phép hạn chế rủi ro một cách có hiệu quả tại từng điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Thiết kế và thực hiện các hành động điều chỉnh khi phát hiện
ra một mối nguy không thể hạn chế và kiểm soát nổi.
- Nguyên tắc 6: Xây dựng những biện pháp đặc hiệu đối với việc kiểm tra
hiệu quả và tác dụng của hệ thống HACCP
- Nguyên tắc 7: Xây dựng một hệ thống tài liệu thích hợp về việc áp dụng 6
nguyên tắc trên cho phép đảm bảo toàn bộ hệ thống HACCP hoạt động tốt
và hợp thức hoá.
Dựa trên 7 yếu tố đã nêu, người ta xây dựng 12 bước áp dụng cụ thể, từ việc
thành lập nhóm công tác chịu trách nhiệm chính trong việc việc áp dụng hệ thống
HACCP tại cơ sở, đến việc thiết lập các thủ tục thẩm định, thiết lập hệ thống hồ sơ,
tài liệu (xem chi tiết ở phụ lục). Có thể thấy rằng các yêu cầu đảm bảo an toàn của
HACCP rất khắt khe.

Chỉ thị 76/895/EEC không chỉ được EU áp dụng đối với các sản phẩm nông
nghiệp sản xuất trong khối EU mà áp dụng đối với cả sản phẩm nông nghiệp nhập
khẩu. Các nước bên ngoài muốn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị
trường EU thì trong quá trình trồng trọt và chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại
thuốc trừ sâu với hàm lượng tối đa cho phép. Những sản phẩm nông nghiệp nào
nhập khẩu vào EU vi phạm quy định trên, Uỷ ban châu Âu sẽ đưa ra lệnh tạm dừng
nhập khẩu, trả lại hàng, hoặc tiêu huỷ lô hàng (biện pháp áp dụng sẽ tuỳ thuộc vào
mức độ vi phạm). Thời hạn dừng nhập khẩu dài hay ngắn còn phụ thuộc chủ yếu
vào việc chấp hành quy định này trong sản xuất nông nghiệp của các nước xuất
khẩu sang thị trường EU. Kể từ khi Chỉ thị 76/895/EEC có giá trị hiệu lực thi hành,
chưa có một lô hàng nhập khẩu nào vào EU vi phạm những quy định đề ra trong
Chỉ thị.
3.5 Kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản nhằm đảm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38

Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang
15
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được cụ thể hoá trong sáu Chỉ thị và Quyết định sau:
(1) Chỉ thị 97/78/EEC; (2) Chỉ thị 91/493/EEC; (3) Chỉ thị 91/492/EEC; (4) Chỉ thị
96/22/EEC; (5) Chỉ thị 96/23/EEC; và (6) Quyết định 97/296/EEC. Những Chỉ thị
và Quyết định này đang có giá trị hiệu lực thi hành.
Sáu Chỉ thị và Quyết định từ (2) đến (6) bao gồm những quy định mà các nước
ngoài khối khi xuất khẩu sang EU phải tuân thủ, ví dụ như: cơ quan chức năng của
các nước xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra hàng trước khi xuất khẩu sang thị
trường EU Chỉ có một Chỉ thị duy nhất (Chỉ thị 97/78/EEC) buộc các nước thành
viên EU phải tuân thủ và chịu trách nhiệm kiểm tra hàng nhập khẩu tại cửa khẩu
trước khi cho nhập khẩu vào lãnh thổ của mình.
Chị thị 91/493/EEC ngày 22.7.1991 đề ra các điều kiện vệ sinh đối với việc
sản xuất và đưa vào thị trường các sản phẩm thuỷ sản cho người tiêu dùng (điều 11

Chỉ thị 93/43/EEC ngày 14.6.1993 về vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị này đề ra
những luật lệ chung về vệ sinh thực phẩm và các thủ tục thẩm tra việc chấp hành
các luật lệ ấy. Việc chuẩn bị, chế biến, sản xuất, bao gói, bảo quản, vận chuyển,
phân phối, lưu trữ, bán buôn và bán lẻ cần phải được tiến hành một cách vệ sinh,
được giám sát theo các nguyên tắc của HACCP.
Quyết định 97/296/EEC ngày 22/4/1997 thành lập danh sách các nước thứ
Ba được phép xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản dùng làm thực phẩm vào Cộng đồng
châu Âu. Quyết định này được sửa đổi bằng Quyết định 2002/863/EC ngày
29.10.2002, trong đó, danh sách các nước được nhập khẩu thuỷ sản vào EU được
chia làm hai nhóm: (1) Nhóm I - gồm 72 nước (ở châu Á có: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Thailand, Việt Nam) được EU áp dụng
chế độ kiểm tra thông thường ; (2) Nhóm II - gồm 35 nước (ở châu Á có: Hồng
Kông, Myanmar) bị EU áp dụng chế độ kiểm tra 100% các lô hàng thuy sản nhập
khẩu vào EU. Tuy nhiên, nếu các nước thuộc Nhóm I vi phạm Quy định kiểm tra
thú y ở mức độ nhất định (gây ảnh hưởng tới thị trường EU) EU sẽ áp dụng biện
pháp kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu, thời hạn áp dụng dài hay ngắn
tuỳ thuộc vào việc chấp hành quy định kiểm tra thú y của các doanh nghiệp thuỷ sản
nước đó. Nếu vi phạm nặng, EU sẽ đưa nước đó trở lại Nhóm II và áp dụng trở lại
chế độ kiểm tra 100%.
Chỉ thị 97/78/EEC được đưa ra để tổ chức kiểm tra thú y các sản phẩm nhập


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status