ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA ĐÔNG Y potx - Pdf 11

ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA ĐÔNG Y Gồm 2 phần: trị bên trong và trị bên ngoài.
Thường thì cả hai phương pháp cùng dùng kết hợp nhưng có nhưng trường hợp
bệnh nhẹ chỉ cần trị bên ngoài là đủ.
A. Phép Trị Bên Trong:
Phép trị bên trong tức cho uống thuốc thì cùng biện chứng luận trị như nội khoa
nhưng theo sự phát triển thành giai đoạn của bệnh ngoại khoa nên tuỳ giai đoạn
bệnh mà có 3 phương pháp khác nhau là Tiêu, Thác và Bổ.
Phép Tiêu dùng trị m
ụn nhọt chưa có mủ, làm cho nó tiêu đi một cách vô hình.
Phép Thác dùng khi mụn nhọt đã mưng mủ và khi mới vỡ để thác độc ra ngoài và
phòng ngừa khi độc vào sâu, lan rộng. Phép bổ dùng sau khi nhọt đã vỡ, khi mủ đã
ra, độc khí thoát ra, khí huyết đã hư, cần dùng phép bổ để giúp phục hồi chính khí.
Đây là ba phép chữa chủ yếu để trị mụn nhọt. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh
khác nhau, biểu lý, hàn nhiệt, hư thực, âm dương của từ
ng bệnh khác nhau, do đó
ba cách chữa này lại có thể chia thành các cách chữa khác.
1. Phép Tiêu: là phép điều trị cho tất cả các loại bệnh ngoài da ở giai đoạn mới bắt
đầu, bao gồm các chứng mụn nhọt có làm mủ và các chúng không có mủ, mục đích
để làm cho tiêu viêm. Trên lâm sàng thường tùy theo trạng thái bệnh lý của người
bệnh mà dùng phép trị cho phù hợp. Thí dụ, bệnh nhọt có chứng biểu thì dùng
phép giải biểu, lý thực thì thông lý; Nhiệt độc thịnh thì phải thanh nhiệt, tiêu độc;
Hàn ngưng phải ôn thông; Đờm ngưng phả
i khu đờm; Thấp ứ trở phải trừ thấp;
Khí trệ phải hành khí; Huyết ứ phải hoạt huyết, hóa ứ, v.v
Vì vậy, phép tiêu gồm nhiều phương pháp sau đây:
a- Phép Giải Biểu: cũng là phép phát hãn làm ra mồ hôi.
Giải Biểu Tán Tà: Mụn nhọt khi mới phát có những chứng ở biểu như sợ lạnh, sốt,
đầu đau, mạch Phù, phải dùng phép giải biểu, tán tà để trị. Hơn nữa, mụn nh

thì phải giải cả biểu lẫn lý, dùng phép phát hãn và phép hạ. Thường dùng bài Thần
Thụ Vệ Sinh Thang.
Trên lâm sàng thường dùng 2 phương pháp công hạ và nhuận hạ. Phương pháp
công hạ dùng cho chứng lý có thực nhiệt (nhọt kèm theo bứt rứt, khát nước, bụng
đầy, táo bón, mạch Trầm Sác có lực, lưỡi đỏ, rêu vàng khô). Thường dùng bài Đại
Thừa Khí Thang. Phương pháp nhuận hạ
dùng cho chứng âm hư hoả vượng,
trường vị tân dịch khô, táo bón, bụng đầy, lười khô, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác. Bài
thuốc thường dùng là Nhuận Trường Thang (Đương quy, Sinh địa, Cam thảo, Hoả
ma nhân, Đào nhân).
c- Thanh Nhiệt: dùng thuốc hàn lương để thanh giải nhiệt độc bên trong. Vì nhiệt
tà hóa độc là nguyên nhân gây bệnh phổ biến trong ngoại khoa đông y, cho nên
phép thanh nhiệt dùng khá nhiều trong ngoại khoa bất kỳ ở giai đoạn nào của bệnh.
Thường dùng 3 cách chính để thanh lý thực nhiệt:
. Thanh Nhiệt Giải Độc, thường dùng bài Hoàng Liên Giải Độc Thang (Hoàng liên,
Hoàng bá, Hoàng cầm, Chi tử).
. Thanh Nhiệt Tả Hỏa (thanh nhiệt tại phần khí), thường dùng bài Bạch Hổ Thang
(Thạch cao, Tri mẫu, Cam thảo, Ngạnh mễ).
. Thanh Nhiệt Lương Huyết (thanh nhiệt tại phần huyết), thường dùng bài Tê Giác
Địa Hoàng Thang (Tê giác có thể thay bằng Sừng trâu), Sinh địa hoàng, Xích
thược, Đơn bì).
Tùy tình hình bệnh lý phát triển, 3 phương pháp trên có thể phối hợ
p cùng dùng.
. Thanh Tâm Giải Độc: ung nhọt mà nhiệt độc nung nấu dữ dội, độc khí hãm vào
Tâm bào biểu hiện bằng sốt cao, phiền táo, hôn mê, nói xàm, co giật, quyết nghịch,
nên dùng phép thanh Tâm giải độc. Nếu chứng đinh chuyển thành ‘tẩu hoàng’ và
chứng nhọt biến thành ‘nội hãm’ tức là độc khí hãm vào Tâm bào gây ra. Thường
dùng Tử Tuyết Đơn, Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn. Nếu nhiệt độc chưa thanh
giải được lâu ngày gây tổn thương âm dịch sinh chứng hư nhiệt (hư hỏa), cần tư
âm thanh nhiệt dùng bài Tri bá địa hoàng hoàn (Sinh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đơn

tan khối u do đờm ngưng tụ. Vì đờm không phải là nguyên nhân chính gây bệnh u
nhọt nên khư đờm thường là phương pháp phối hợp, cho nên có nhiều phép khư
đờm như sơ phong hóa đờm, giải uất hóa đờm, dưỡng vinh hóa đờm, v.v Bài
thuốc thường dùng có Ng
ưu Bàng Giải Cơ Thang (Ngưu bàng tử, Bạc hà, Kinh
giới, Liên kiều, Chi tử, Đơn bì, Thạch hộc, Huyền sâm, Hạ khô thảo), Hương Bối
Dường Vinh Thang (Hương phụ, Bối mẫu, Bạch truật, Đảng sâm, Phục linh, Trần
bì, Xuyên khung, Thục địa, Đương quy, Cát cánh, Cam thảo, Sinh khương, Đại
táo), Tiêu Dao Tán hợp Nhị Trần Thang.
+ Lý Thấp: là phép dùng thuốc táo thấp hoặc thấm thấp để trừ thấp tà. Chứng ung
nhọt do thấp tà gây nên thường kèm nhiệt, phong, thấp hoặc hàn cho nên phép lý
thấp thường cũng không dùng đơn độc mà thường dùng kết hợp với các phép thanh
nhiệt, trừ phong, tán hàn. Cho nên thường dùng các phép thanh nhiệt lợi thấp, tán
hàn hóa tháp, trừ thấp khu phong trong các trường hợp ung nhọt do thấp nhiệt ho
ặc
hàn thấp, phong thấp. Bài thuốc thường dùng có Tỳ Giải Thấm Thấp Thang (Tỳ
giải, Ý dĩ, Hoàng bá, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả, Hoạt thạch, Thông thảo), Ngũ
Thần Thang (Phục linh, Kim ngân hoa, Ngưu tất, Xa tiền, Tử hoa địa đinh), Long
Đởm Tả Can Thang (Long đởm thảo, Chi tử, Sài hồ, Hoàng cầm, Sinh địa, Trạch
tả, Đương quy, Xa tiền tử, Mộc thông, Cam thảo), Độc Hoạt Ký Sinh Thang.
+ Sơ Can Giải Uất: Vì lo ngh
ĩ, uất giận, tình chí không được thoải mái, thất tình
uất kết gây nên. Thí dụ như vú sưng, thạch thư (hạch cứng ở cổ gáy), thất vinh
(hạch mọc trước và sau tai, trong gáy), tràng nhạc (lao hạch), chỗ sưng cứng khác
thường, mầu da không thay đổi, khó tiêu cũng như khó vỡ. Phải dùng phương pháp
sơ Can giải uất. Thường dùng bài Thư Can Hội Kiên Thang.
+ Lý Khí: là phép dùng thuốc lý khí để thông lợi khí cơ, điều hòa khí huyết, tiêu
s
ưng, nhuyễn kiên, chỉ thống. Bệnh ngoại khoa phát sinh thường do khí huyết ứ
trệ. Khí và huyết là có quan hệ mật thiết cho nên phép hành khí thường dùng kết

nhân lơ mơ, sắc mặt kém tươi nhuận, mạch Sác vô lực. Thường dùng bài Thác Lý
Tiêu Độc Tán (Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo, Xuyên
khung, Đương quy, Bạch th
ược, Bạch chỉ, Kim ngân hoa, Tạo giác thích, Cát
cánh).
3. Phép Bổ: Dùng các loại thuốc có tác dụng bổo dưỡng cơ thể, giúp cho chính khí
mau hồi phục, ung nhọt chóng lành miệng. Thường đùng trong giai đoạn cuối của
chứng ung nhọt, nhiệt độc đã hết nhung tinh thần còn mệt mỏi, nguyên khí suy
yếu, nước mủ loãng, nhọt khó liền miệng. Tùy tình hình hư nhược của cơ thể mà
dùng phép bổ khác nhau. Nếu khí huyết hư thì bổ khí huyế
t, nếu tỳ vị hư thì bổ tỳ
hòa vị, can thận bất túc thì bổ ích can thận. Trường hợp độc tà chưa hết thì phải
thận trọng khi dùng phép bổ vì sẽø làm cho tà khí bị lưu giữ lại và bệnh nặng hơn.
Phép bổ dùng trong ngoại khoa thường có mấy loại:
+ Bổ khí dưỡng huyết: Dùng trong các trường hợp nhọt đã vỡ hoặc lở loét lâu
ngày, nước mủ trong, loãng, miệng nhọt khó liề
n, mạch Hư, mệt mỏi, hoặc các
bệnh ngoại khoa khác có chứng khí huyết hư. Thường dùng bài Bát Trân Thang.
+ Bổ Âm: dùng cho chứng âm hư như các chứng ung nhọt đã vỡ hoặc chưa vỡ
hoặc các chứng ngoại khoa khác. Các bệnh ngoại khoa mà có các triệu chứng như
sốt đêm, sốt về chiều, mồ hôi trộm, lòng bàn chân tay nóng, lưng gối đau mỏi, hoa
mắt, ù tai, mạch Tế Sác, lưỡi đỏ, ít rêu, thuộc chứ
ng thận âm hư đều có thề dùng
bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn để tư âm, bổ thận.
+ Bổ Dương: các chứng ung nhọt lở loét khó làm mủ hoặc sau khi đã vỡ mà xám
đen hoặc khó mọc, tắc động mạch chi, co thắt động mạch đầu chi, chân lạnh, mầu
da tái nhợt, thích ấm, sợ lạnh, tiêu lỏng, tiểu nhiều lần, lười nhợt, rêu trắng, mạch
Trầm Tế Trì có triệu chứng dương hư, dùng bài Quế Phụ Bát Vị Hoàn.
+ Dưỡng Vị: Thường dùng ở giai đoạn cuối của bệnh ung nhọt để giúp hồi phục
chức năng của tỳ vị. Trên lâm sàng thường dùng phương pháp lý tỳ, hòa vị và

bệnh. Trị bệnh bên ngoài cũng cần biện chứng luận trị để chọn phươ
ng trị thích
hợp. Phép trị bên ngoài có thể chia làm 3 loại: phép trị dùng thuốc, phép trị bằng
thủ thuật và trị bằng các phương pháp khác.
1. Phép trị dùng thuốc: Có nhiều cách dùng thuốc bên ngoài.
+ Thuốc Đắp: Đắp thuốc tươi như hái lá tươi Bồ công anh, lá cây Sống đời, v.v
giã nát đắp lên vùng bệnh; dùng cho bệnh ung nhọt thuộc chứng dương, chứng
nhiệt.
+ Thuốc Dán: Là loại thuốc cao dùng để tiêu thủng, hút độc, trừ thịt họa tử, giảm
đau, sinh da non, thu miệng có nhiều loại cao khác nhau cho nên khi áp dụng, cần
hiểu rõ tính chất của từng loại. Thí dụ: Gia Vị Thái Ất Cao dùng để thanh hỏa, tiêu
thủng, hút mủ
, sinh cơ, vì vậy đây là phương thuốc cao thông dụng để trị khi nhọt
mưng và vỡ. Thích hợp với chứng dương và chứng nửa âm nửa dương. Bài Dương
Hòa Giải Ngưng Cao thiên về ôn nhiệt, bất kể nhọt đã vỡ hoặc chưa vỡ đều dùng
được, nhưng chỉ hợp với chứng âm hàn. Bài Hoàng Liên Cao có tác dụng thanh
hỏa, nhuận táo, vì vậy, mụn nhọt đã vỡ rồi mà l
ại sưng lên đau nhức thì rất hợp.
Bài Sinh Cơ Ngọc Hồng Cao chuyên trị thịt hoại tử, sinh cơ, là phương thuốc có có
tác dụng thu liễm rất hay của Ngoại khoa.
+ Thuốc Bao Vây: Mụn nhọt khi mới phát, sưng cứng thì dán cao cho tiêu là đúng
nhưng nếu mụn lan tỏa, không có chân, không thành khối u, cứng, thì phải dùng
thuốc bao vây. Vì tác dụng của thuốc bao vây có thể làm cho ung độc thu lại,
không lan rộng ra; Chứng nhẹ có thể tiêu đi, rồ
i khỏi. Nếu độc khí đã kết tụ cũng
có thể làm cho mụn nhọt thu nhỏ lại, sưng lên, dễ mưng mủ, dễ vỡ ra. Vì vậy
không chỉ dùng loại thuốc này khi mới phát mà dù sau khi đã vỡ mủ mà chỗ sưng
còn sót lại cũng cần dùng nó để làm tiêu sưng. Tuy nhiên, cần dựa vào hàn nhiệt
mà lựa chọn thuốc cho phù hợp. Dương chứng: dùng bài Như Ý Kim Hoàng Tán.
Âm chứng: dùng bài Hồi Dương Ngọc Long Cao.

có thịt lồi làm trở ngại việc liền miệng. Thường dùng Bạch Giáng Đơn, Bình Nô
Đơn.
+ Thuốc Sinh Cơ, Thu Miệng: có tác dụng giải độc, thu liễm, giúp da sinh trưởng
nhanh, bôi thuốc giúp nhọt nhanh lành miệng, dùng trong trường hợp nhọt đã hết
mủ. Thường dùng Sinh Cơ Tán, Bát Bảo Đơn.
+ Thuốc Cầm Máu: có tác d
ụng thu sáp, cầm máu. Dùng bôi rắc vào nơi chảy máu
rồi băng lại. Thường dùng Ddaò Hoa Tán, Điền Thất Tán, Vân Nam Bạch Dược…
+ Thuốc Rửa: Là các dùng thuốc nấu lấy nước, khi nước còn ấm nóng, dùng để
rửa, ngâm, bôi, đắp chỗ đau.
. Mụn nhọt mới sưng và khi sắp vỡ mủ: dùng bài Song Quy Tháp Thủng Thang.
. Nhọt thuộc loại âm chứng không nổi lên được: dùng bài Ngải Nhung Phu Pháp.
. Mụn nhọt đã vỡ dùng Trư Đề
Thang, có khả năng làm cho đỡ đau.
. Các chứng lở loét, hắc lào, ngứa có thể dùng Khổ Sâm Thang để rửa.
Cách chung:
. Bệnh ở chân tay: có thể dùng nước thuốc để ngâm.
. Bệnh ở lưng, bụng nên thấm rửa nhiều lần.
. Bệnh ở hạ bộ có thể dùng cách ngồi tắm.
+ Thuốc Cứu: Dùng phép cứu để trị bệnh ngoại khoa đã được mô tả rất sớm trong
sách Nội Kinh. Có cách chỉ dùng mồi ngải để cứu. Có thể cuốn thành điếu ngải
cứu, có khi cứu cách Gừng, Tỏi, Đậu xị dùng khi mụn nhọt mới phát, có tác dụng
sơ thông khí huyết, khai kết, tán độc, tạo được tác dụng tiêu tan.
. Phụ
Tử Bính Cứu thích hợp với mụn nhọt đã vỡ do hư hàn, vì khí huyết hư hàn
không thủ thu miệng nhọt lại được.
. Lôi Hỏa Thần Châm thích hợp với phong, hàn, thấp xâm nhập vào kinh lạc.
. Tang mộc cứu (cứu bằng càng Dâu): hợp với những chứng âm, cứng mà không
vỡ được, không sinh da non, đau nhức không khỏi đều có thể dùng được.
Tuy nhiên trường hợp dương chứng không nên cứu, sợ rằng dùng lử



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status