Báo cáo "Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo về phần hình sự của toà án cấp phúc thẩm" doc - Pdf 12



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 4/2011 43 TS. Vũ Gia Lâm *
hi xột x phỳc thm v ỏn hỡnh s m
bn ỏn s thm cha cú hiu lc phỏp
lut b khỏng cỏo, khỏng ngh, to ỏn cp
phỳc thm cú cỏc quyn hn c quy nh
ti khon 2 iu 248 B lut t tng hỡnh
s (BLTTHS), trong ú cú quyn sa bn
ỏn s thm.
(1)

Quyn sa bn ỏn s thm ca to ỏn
cp phỳc thm (thc cht l quyn ca hi
ng xột x phỳc thm) l s can thip trc
tip vo bn ỏn s thm, lm thay i ni
dung ca bn ỏn ny theo hng cú li hoc
khụng cú li cho b cỏo. Quyn sa bn ỏn
s thm ca hi ng xột x (HXX) phỳc
thm c c th hoỏ ti iu 249 BLTTHS,
bao gm quyn sa bn ỏn s thm theo
hng cú li hoc hng khụng cú li cho
b cỏo c phn quyt nh v hỡnh s v
phn quyt nh v dõn s ca bn ỏn.

i din hp phỏp ca h cú quyn khỏng
cỏo bn ỏn, quyt nh ca to ỏn. Ngh
quyt ca Hi ng thm phỏn To ỏn
nhõn dõn ti cao s 05/2005/NQ-HTP
ngy 8/12/2005 hng dn ỏp dng mt s
quy nh ti Phn th 4 Xột x phỳc
thm ca BLTTHS nm 2003 ó hng
dn v iu 231 BLTTHS ti tiu mc 1.3
mc 1 phn I nh sau:
K
* Ging viờn chớnh Khoa phỏp lut hỡnh s
Trng i hc Lut H Ni nghiªn cøu - trao ®æi
44 t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011
“1.3. Người bị hại, người đại diện hợp
pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị
hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc
trường hợp người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án
hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi
cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn
tình trạng của bị cáo”.
Theo hướng dẫn này thì trong vụ án có
sự tham gia của người đại diện hợp pháp của
người bị hại, cả người bị hại và người đại
diện hợp pháp của họ đều có quyền kháng
cáo bản án, quyết định sơ thẩm với phạm vi

kháng cáo của người đại diện hợp pháp của
người bị hại theo hướng không có lợi cho bị
cáo về phần quyết định hình sự của bản án
sơ thẩm thì dù có căn cứ, toà án cấp phúc
thẩm cũng không được chấp nhận để sửa bản
án theo hướng này. Như vậy, các yêu cầu
của kháng cáo quy định cho người đại diện
hợp pháp của người bị hại tại BLTTHS chưa
được đảm bảo thực hiện đầy đủ. Theo chúng
tôi, để đảm bảo sự thống nhất giữa Điều 51,
Điều 231 và khoản 3 Điều 249 BLTTHS,
đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của người
tham gia tố tụng, khoản 3 Điều 249 BLTTHS
cần phải bổ sung một lí do (cơ sở) nữa để có
thể xem xét sửa án sơ thẩm theo hướng tăng
nặng về phần hình sự của bản án sơ thẩm, đó
là khi có kháng cáo của người đại diện hợp
pháp (người đại diện theo pháp luật) của
người bị hại.
Ngoài ra, tại khoản này của điều luật cần
quy định mở rộng hơn nữa quyền sửa bản án
sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo
về phần hình sự theo yêu cầu của kháng cáo
có căn cứ của người bị hại, người đại diện
hợp pháp của họ. Bởi vì, trong thực tế phạm
vi kháng cáo của những người này về phần
quyết định hình sự của bản án sơ thẩm
không chỉ hạn chế ở việc yêu cầu tăng hay
giảm hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS
về tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn mà còn có thể

sơ thẩm lại kết tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 140
BLHS với tình tiết định khung quy định tại
điểm a khoản này là phạm tội “có tổ chức”
và bản án của toà án cấp sơ thẩm bị người
bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng
nghị yêu cầu áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ
luật hình sự để xét xử bị cáo về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
- Trường hợp thứ hai, tội mà toà án cấp
sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo chính là tội
mà viện kiểm sát đã viện dẫn để truy tố
hoặc tội khác bằng hay nhẹ hơn tội mà viện
kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Tội mà viện kiểm
sát truy tố là tội cướp giật theo Điều 136
BLHS và toà án cấp sơ thẩm đã kết tội theo
Điều này hoặc kết tội cưỡng đoạt tài sản
theo Điều 134 BLHS (tội cưỡng đoạt tài sản
được coi là nhẹ hơn tội cướp giật vì hình
phạt nghiêm khắc nhất mà điều luật quy
định có thể áp dụng với người phạm tội là
tù có thời hạn đến 20 năm, còn hình phạt
nghiêm khắc nhất mà điều luật quy định có
thể áp dụng với người phạm tội cướp giật là
tù chung thân) và bản án sơ thẩm bị người
bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng
nghị yêu cầu đổi tội danh thành cướp tài sản
theo Điều 133 BLHS (tội cướp tài sản được
coi là nặng hơn tội cướp giật và tội cưỡng
đoạt tài sản vì có loại hình phạt nghiêm

cú c cp s thm xỏc nh rừ rng ti
phiờn to s thm, do gii hn xột x quy
nh ti iu 196 BLTTHS khụng cho phộp
cp s thm x theo ti nng hn ti m vin
kim sỏt ó truy t nờn HXX cp s thm
cng khụng c ỏp dng xột x m phi
ra quyt nh yờu cu iu tra b sung theo
quy nh ti im b khon 1 iu 179
BLTTHS vỡ cú cn c cho rng b cỏo
phm ti khỏc. Do vy, nu HXX phỳc
thm ỏp dng iu 133 BLHS sa bn ỏn
s thm s ng ngha vi vic HXX phỳc
thm ó cụng nhn rng to ỏn cp s thm
cng c ỏp dng iu khon BLHS v ti
nng hn ti m vin kim sỏt ó truy t. V
nh vy s vt quỏ gii hn xột x s thm
quy nh ti iu 196 BLTTHS l to ỏn s
thm ch c ỏp dng iu khon BLHS v
ti khỏc bng hoc nh hn ti m vin kim
sỏt ó truy t. Theo chỳng tụi, cn sa i,
b sung khon 3 iu 249 BLTTHS quy
nh c th v quyn sa bn ỏn s thm
theo hng ny hn ch trng hp to
ỏn cp phỳc thm cú quyn ỏp dng iu
khon BLHS v ti nng hn ti m to ỏn
cp s thm ó ỏp dng, cho thng nht vi
iu 196 BLTTHS khụng vi phm gii
hn xột x s thm.
Th ba, nu quy nh trong mi trng
hp cú khỏng cỏo, khỏng ngh theo hng

xột x v ti trm cp ti sn theo khon 3
iu 138 BLHS cú mc cao nht ca khung
hỡnh pht l 15 nm tự (l ti phm rt
nghiờm trng theo cỏch phõn loi ti khon
3 iu 8 BLHS v theo quy nh ti khon
1 iu 170 BLTTHS thỡ ti ny thuc thm nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011 47
quyền xét xử của toà án cấp huyện). Người
bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng
nghị yêu cầu chuyển sang khoản 4 có khung
hình phạt nặng hơn (là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng theo cách phân loại tại khoản
3 Điều 8 BLHS và theo quy định tại khoản
1 Điều 170 BLTTHS thì tội này không
thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp
huyện) và khi xét xử phúc thẩm, toà án cấp
phúc thẩm xác định yêu cầu của kháng cáo,
kháng nghị là có căn cứ. Tuy nhiên, nếu
HĐXX phúc thẩm áp dụng khoản 4 Điều
138 BLHS để sửa bản án sơ thẩm thì với
việc làm này, HĐXX phúc thẩm đã mặc
nhiên thừa nhận rằng toà án cấp sơ thẩm có
quyền xét xử bị cáo về tội đặc biệt nghiêm
trọng. Do toà án cấp sơ thẩm đã mắc sai
lầm trong việc áp dụng BLHS nên đã định
khung hình phạt không đúng, nay toà án cấp
phúc thẩm chỉ sửa chữa sai lầm đó mà thôi.

thêm hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện
pháp tư pháp. Trường hợp nguyên đơn dân
sự, người đại diện hợp pháp của họ, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự là người bị
hại, nguyên đơn dân sự là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất kháng cáo yêu cầu thì
toà án cấp phúc thẩm có thể tăng mức bồi
thường thiệt hại. Trường hợp có kháng
nghị của viện kiểm sát hoặc kháng cáo của
người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại
diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân
sự theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị
cáo, nếu có căn cứ, toà án vẫn có thể giảm
hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình
sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang khung hình
phạt khác nhẹ hơn hoặc chuyển sang loại
hình phạt khác nhẹ hơn, giữ nguyên mức
hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm
mức bồi thường thiệt hại.
Trường hợp chỉ có kháng cáo, kháng
nghị theo hướng giảm nhẹ, toà án cấp phúc nghiªn cøu - trao ®æi
48 t¹p chÝ luËt häc sè 4/2011
thẩm không được sửa án sơ thẩm theo
hướng tăng hình phạt, nếu có căn cứ xác
định bản án sơ thẩm là quá nhẹ thì ra quyết

thì dù kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ,
cũng như đảm bảo đầy đủ các quy định khác
về thẩm quyền xét xử, quyền bào chữa của
bị cáo, thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm,
toà án cấp phúc thẩm vẫn phải ra quyết định
hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét
xử lại sơ thẩm từ đầu”.
Nếu sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 249
BLTTHS như trên thì cũng cần sửa đổi, bổ
sung quy định tại đoạn 1 Điều 231 Bộ luật
này theo hướng cụ thể hơn nữa giới hạn
quyền được kháng cáo bản án sơ thẩm của
người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ
để đảm bảo sự thống nhất trong quy định
pháp luật cũng như làm cơ sở cho việc sửa
bản án sơ thẩm. Cụ thể, đoạn 1 Điều 231
BLTTHS sửa đổi sẽ có nội dung sau:
Điều 231. Những người có quyền kháng cáo
“Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ
có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định
sơ thẩm. Người bị hại, người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản
án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có
lợi hoặc không có lợi cho bị cáo;
”.

(1). Điều 248. Bản án phúc thẩm và thẩm quyền của
toà án cấp phúc thẩm
“1. …
2. Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status