Nghiên cứu cách ứng phó của người bệnh nghiện rượu với những khó khăn trong cuộc sống - Pdf 13

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


NGUYỄN THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU CÁCH ỨNG PHÓ CỦA
NGƯỜI BỆNH NGHIỆN RƯỢU VỚI NHỮNG
KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội - 2013
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


NGUYỄN THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU CÁCH ỨNG PHÓ CỦA
NGƯỜI BỆNH NGHIỆN RƯỢU VỚI NHỮNG
KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG
: Tâm lý học chuyên ngành
: 62.31.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
: PGS.TS. NGUYỄN SINH PHÚC
Hà Nội - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những dữ liệu
và kết quả trong luận án là trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hương
CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
NBNR Người bệnh nghiện rượu

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 145
1. KẾT LUẬN 145
2. KIẾN NGHỊ 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 159
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 1 2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mô tả mẫu khách thể nghiên cứu 55
Bảng 2.2. Mức độ người bệnh nghiện rượu mong muốn nhận được sự trợ
giúp 68
Bảng 3.1. Mức độ và tần suất khó khăn trong cuộc sống của người bệnh 78
Bảng43.2. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố lứa tuổi (N = 105) 84
Bảng53.3. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố nghề nghiệp (N = 105) 85
Bảng63.4. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố học vấn (N = 105) 86
Bảng73.5. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố quan hệ hôn nhân (N = 105) 87
Bảng83.6. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố quan hệ gia đình (N = 105) 88
Bảng93.7. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua 89
Bảng103.8. Mức độ khó khăn trong cuộc sống của người bệnh nghiện rượu
qua yếu tố thời gian uống rượu (N = 105) 90
Bảng113.9. Mức độ và hiệu quả giải quyết cách ứng phó với những khó khăn
về sức khỏe của người bệnh nghiện rượu (N=105) 92
Bảng123.10. Mức độ và hiệu quả giải quyết cách ứng phó với những khó
khăn về kinh tế của người bệnh nghiện rượu (N=105) 93

Bảng283.26. Sự khác biệt giữa khí chất với mức độ lựa chọn cách ứng phó và
hiệu quả giải quyết những khó khăn về kinh tế 119
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sử dụng rượu là một phong tục có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Bản
thân rượu nếu được sử dụng đúng mực thì hoàn toàn không có hại, thậm chí còn có
lợi cho sức khỏe. Trong những năm gần đây, theo các nhà nghiên cứu, tình trạng
lạm dụng rượu đã trở thành một trong những vấn nạn mang tính toàn cầu và có xu
hướng ngày một phổ biến trong xã hội hiện đại. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế
giới khoảng 1/3 dân số thế giới có sử dụng rượu [1], trong đó có khoảng 140 triệu
người nghiện rượu. Ở Úc có trên 5% người lớn nghiện rượu; [14], [96]; Pháp 4%;
Ấn Độ 3%; Mỹ có 13% số người lớn lạm dụng rượu hay lệ thuộc rượu ở một thời
kỳ trong đời [19].
Ở Việt Nam nghiện rượu được thừa nhận là một vấn đề xã hội đáng quan
tâm. Theo con số thống kê của chuyên ngành tâm thần, Việt Nam hiện có 4% dân
số nghiện rượu, trong đó tỷ lệ người nghiện rượu ở vùng đô thị gần 5%, vùng núi
gần 3% và các vùng nông thôn gần 1%. Kết quả nghiên cứu "Đánh giá tình hình
lạm dụng rượu bia tại Việt Nam" của Viện Chiến lược và chính sách y tế - Bộ Y tế
công bố mới đây cho thấy: Bình quân một người đàn ông Việt Nam uống 15,8 lít
bia, 3,9 lít rượu một năm. So với quy định về lạm dụng rượu, bia của Tổ chức Y tế
Thế giới thì người Việt Nam đang lạm dụng rượu 18%, bia là 5%. Cũng do việc lạm
dụng bia rượu tràn lan như vậy, nên số người phải vào điều trị tại các bệnh viện tâm
thần đang ngày càng tăng. Tác hại của rượu không chỉ khu trú ở chỗ tàn phá cơ thể
và tinh thần người uống, nó còn gây biết bao hậu quả khác cho xã hội: tội ác, tai nạn
giao thông, thiệt hại về tiền của và sức lao động, tổn thất về đạo đức và cả nòi giống
mai sau nghiện rượu còn là nguyên nhân làm hủy hoại sức khỏe của người bệnh,
giảm khả năng lao động, làm gia tăng rối loạn trật tự xã hội, mất an toàn giao thông,
tăng nguy cơ phạm tội, tiêu tốn tiền của cho việc điều trị các bệnh lý liên quan đến

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cách ứng phó của người bệnh nghiện rượu nhằm đưa ra những
khuyến cáo, định hướng cho việc can thiệp, trợ giúp đối với người bệnh nghiện
rượu trước những khó khăn trong cuộc sống.
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Người bệnh nghiện rượu có xu hướng sử dụng các cách ứng phó tập trung
vào cảm xúc, thụ động. Họ ít sử dụng các cách ứng phó chủ động, tích cực khi giải
quyết những khó khăn trong cuộc sống.
Các yếu tố ảnh hưởng và một số đặc điểm nhân cách của người bệnh nghiện
rượu có liên quan chặt chẽ đến cách ứng phó của người bệnh nghiện rượu.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa một số vấn đề về ứng phó tâm lý,
những yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng hiệu quả các cách ứng phó tâm lý của cá
nhân.
4.2. Làm rõ thực trạng khó khăn, thực trạng cách ứng phó và biểu hiện cách
ứng phó tâm lý của người bệnh nghiện rượu với những khó khăn trong cuộc sống.
4.3.Nghiên cứu mối liên quan giữa những yếu tố ảnh hưởng và cách ứng
phó tâm lý của người bệnh nghiện rượu.
4.4. Đề xuất các giải pháp định hướng cho can thiệp trị liệu, chăm sóc và trợ
giúp người bệnh nghiện rượu trước những khó khăn trong cuộc sống.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Cách ứng phó của người bệnh nghiện rượu (NBNR) với những khó khăn
trong cuộc sống
5.2. Khách thể nghiên cứu
a. Tổng số khách thể khảo sát: 105 người bệnh nghiện rượu đang điều trị tại
Bệnh viện tâm thần Trung Ương I và Bệnh viện tâm thần Hà Nội trong thời gian
thực hiện đề tài, trong đó nghiên cứu trường hợp với 3 NBNR.
3
b. Tham khảo ý kiến của một số giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa 2, cán

cách ứng phó được thực hiện thông qua hoạt động sống và làm việc của NBNR.
- Nguyên tắc thống nhất ý thức và hoạt động: một mặt cách ứng phó được
biểu hiện bằng hành động, hành vi của con người, mặt khác, hành động hành vi của
con người chịu sự chi phối của suy nghĩ, tình cảm, do vậy khi nghiên cứu cách ứng
phó cần xem xét suy nghĩ, quan điểm, tình cảm của NBNR chứa trong các cách ứng
phó đó.
- Nguyên tắc hệ thống: con người là thực thể xã hội, vì vậy hành vi của cá
nhân phải được xem xét như là kết quả của sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau:
yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan. Do vậy, cần nghiên cứu cách ứng phó trong
mối quan hệ tương hỗ của các yếu tố, đó là yếu tố di truyền, lứa tuổi, hôn nhân, học,
vấn, nghề nghiệp và sự hỗ trợ xã hội.
- Nguyên tắc tiếp cận liên ngành: sự liên ngành là làm cho các ngành riêng lẻ
không còn như nó vốn có. Phương pháp liên ngành là sản phẩm của tư duy hệ thống
hiện đại, là sự liên kết các phương pháp riêng biệt của nhiều ngành khác nhau như
những phương pháp cụ thể dưới sự chỉ đạo của phương pháp luận mới để khám phá
những đặc tính gộp trội của mỗi ngành. Có thể nói tiếp cận liên ngành là công cụ
đặc biệt, cần thiết và hữu hiệu trong nghiên cứu khoa học.
7.2. Hệ thống các phương pháp
)*+*,*-&&.&/&
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp.
)*+*+*0-12343 
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để xử lý số liệu điều tra đã thu thập
được qua bảng hỏi.
5

Chương 1: Cơ sở lý luận về cách ứng phó của người bệnh nghiện rượu với
những khó khăn trong cuộc sống
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn
Kết luận và kiến nghị
- Danh mục các công trình đã công bố của tác giả
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục
7
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁCH ỨNG PHÓ CỦA NGƯỜI BỆNH
NGHIỆN RƯỢU VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Thuật ngữ “ứng phó”(coping) được dịch từ tiếng Anh, xuất hiện ở phương
Tây và Mỹ vào những năm 50 của thế kỷ trước. Ban đầu khái niệm ứng phó
(coping) được sử dụng trong các nghiên cứu về các sang chấn tâm lý (stress) để
biểu thị phương thức tự vệ của các nghiệm thể trong các tình huống có sang chấn.
Về sau thuật ngữ “ứng phó” đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu về
các thời kỳ khủng hoảng liên quan tới các bệnh kinh niên, nan y mãn tính. Trong
những hoàn cảnh đó mỗi bệnh có thể được tiếp nhận như một tác nhân gây sang
chấn cần được vượt qua bằng cách thích nghi cơ thể với các điều kiện sống, làm sao
để cơ thể có thể tiếp tục phát triển trong một trật tự nhất định. Vào năm 1974, lần
đầu tiên công bố những kết quả nghiên cứu liên quan đến các vấn đề như là cấu trúc
của sự “ứng phó”, cũng như các đặc điểm cá nhân của sự thích nghi và các cách ứng
phó với những bệnh nan y mãn tính. Từ những năm 80, ở Mỹ, khái niệm “ứng phó”
đã trở nên quen thuộc không chỉ với các nhà tâm lý mà còn cả với các nhà nghiên
cứu thuộc các chuyên ngành khác, những người quan tâm nghiên cứu hành vi của
con người. Một số tác giả cho rằng hành vi ứng phó có tính chất ổn định và được
coi như một thiên hướng ứng xử (Carver, Scheier, Weintraub,1989). Theo các tác

vào cảm xúc, tinh thần tiêu cực). Đây là một trong những trắc nghiệm được sử dụng
nhiều trong các nghiên cứu về hành vi ứng phó bởi sự phong phú của nó.
Ngoài ra còn những trắc nghiệm Bảng kê cách ứng phó thường ngày DCI
(Daily coping inventory) của Stone và Neale (1984), trắc nghiệm cách ứng phó
nâng cấp (Way of coping revised) của Folkman và Lazarus . Một số tác giả kết hợp
chọn lọc nhiều trắc nghiệm khác nhau trong nghiên cứu của mình tạo nên bộ trắc
nghiệm mới (Stone A.,Neale J.M., Paty J )
9
Như vậy, có thể thấy khuynh hướng này là một hướng mở cho nhiều nhà
nghiên cứu khác nhau khai thác và phát triển.
Nghiên cứu về các nhân tố có mối liên quan với hành vi ứng phó
Với mục đích tìm kiếm cơ chế của hành vi ứng phó, các nhà nghiên cứu đã
cố gắng tìm hiểu mối quan hệ của ứng phó với một loạt các nhân tố khác nhau.
Hành vi ứng phó với sự kiện cuộc sống, với trải nghiệm cá nhân được các tác
giả quan tâm (Zeidner M., Hammer A., 1990; Brewin C.R., 1994 ). Một số tác giả
cho rằng cá nhân có những trải nghiệm sớm thường có kiểu ứng phó dồn nén, ức
chế khi chúng gặp lại quang cảnh của sự kiện cũ đặc biệt là những sự kiện liên quan
đến quan hệ gia đình. Việc trải nghiệm những sự kiện âm tính là nhân tố trung gian
giữa căng thẳng và cách ứng phó của con người với hoàn cảnh khó khăn.
Theo Lazarus đánh giá về hoàn cảnh là quá trình đầu tiên của cách ứng xử
con người, nghiên cứu về mối liên quan của những đánh giá về tình huống khó khăn
được nhiều tác giả quan tâm (Terry D.J., 1991; Lees M.C.,1999). Theo các tác giả
này, việc con người ứng xử như thế nào trong hoàn cảnh khó khăn thường chịu ảnh
hưởng của việc họ đánh giá về chính hoàn cảnh đó, tình huống đó như thế nào.
Một đặc điểm của nhân cách - tính thần kinh (Neuroticism) có vai trò đối với
hành vi ứng phó (Gunthert K.C., Armeli S., 1999: Lazarus, Folkman, 1984) được
quan tâm nghiên cứu cùng lúc với sự phát triển trở lại của dòng lý thuyết đặc điểm
nhân cách trong những năm gần đây. Các nhà nghiên cứu cho rằng, tính nhạy cảm
tham gia vào mọi giai đoạn của quá trình hình thành hành vi ứng phó của con người
trong những hoàn cảnh gây căng thẳng, từ việc tri giác, đánh giá hoàn cảnh, huy

này cho rằng các đặc điểm nhân cách là nguồn lực chính của hành vi ứng phó [67].
Nghiên cứu vai trò của tôn giáo, niềm tin và ảnh hưởng của nó đến với hành
vi ứng phó cũng như cảm giác bình an của con người đó là tác giả Mahoney. Ông
đã tổng hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu khác về ý tưởng cho rằng kỹ năng ứng
phó với hoàn cảnh khó khăn của cá nhân được khích lệ bởi gia đình, bạn bè và cha
cố trong nhà thờ. Từ đó, ông nghiên cứu vai trò của tôn giáo đối với cách con người
11
ứng xử với hoàn cảnh khó khăn. Ông cho rằng, chính những lời răn dạy của chúa,
những lời khuyên của cha cố về sự bình an trong tâm hồn đã hướng con người đến
với cách ứng xử nhất định với hoàn cảnh.
Các tác giả S.Cobb, 1976; Cohen và Wills, 1985; Turner và Coates, 1992
nghiên cứu về chỗ dựa xã hội (social support). Các tác giả nhấn mạnh cảm giác về
một chỗ dựa chi phối toàn bộ cách anh ta ứng xử với người khác, môi trường xã hội
cũng như tình huống khó khăn. Chỗ dựa xã hội là nhân tố trung gian thúc đẩy sự
vững tin của con người, khích lệ con người thực hiện những hành động hiệu quả
trong những tình huống khó khăn.
Tóm lại, các nghiên cứu theo khuynh hướng này đã cố gắng tìm ra vai trò và
ảnh hưởng của các nhân tố xã hội, cá nhân đối với cách con người ứng xử trong
những tình huống khó khăn. Mức độ quan tâm đến từng loại nhân tố phụ thuộc chặt
chẽ vào khung lý thuyết mà các tác giả đã lựa chọn (tâm lý học nhân cách hay tâm
lý học xã hội), từ đó đưa ra cách lý giải phù hợp với khung lý thuyết của mình.
Nghiên cứu về cách ứng phó của một số nhóm có vấn đề
Một số tác giả Sumer N., Cozzarelli C.,Cooper M.L., nghiên cứu về cách ứng
phó của phụ nữ trong tình trạng bị nạo thai. Các tác giả Essau C.A. và Trommsdorff
1996 nghiên cứu cách ứng phó của học sinh với stress trong học tập. Một số tác giả
Fleishman, Sherbourne, Crystal, Collins, Marshall, Kelly, Shapiro, Hays, 2000
nghiên cứu cách ứng phó của nhóm bệnh nhân AIDS. Khuynh hướng này cho thấy
mỗi nhóm đều có cách ứng phó đặc thù trong mỗi tình huống nhất định. Đó là một
minh chứng cho luận điểm về ảnh hưởng của văn hóa, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm
nhân khẩu đối với cách ứng phó.

thuộc các vùng văn hóa khác nhau. Tác giả Lee R.M., Liu H. T. T., 2001 nghiên
cứu cách ứng phó của học sinh với xung đột thế hệ trong gia đình của người Mỹ
gốc châu Á, người Mỹ gốc Châu Âu, người Mỹ gốc Tây Ban Nha. Các tác giả đề
cập đến ứng phó trực tiếp và gián tiếp. Theo các tác giả, văn hóa là một nhân tố chi
phối cách ứng xử của con người.
Essau C. A. và Trommsdorff (1996) nghiên cứu cách ứng phó với những vấn
đề liên quan đến trường học của học sinh các châu lục đại diện là vùng Bắc Mỹ,
13
Đức, Malaysia đã nhận thấy rằng biểu hiện các cách ứng phó tập trung vào cảm xúc
hay tập trung vào vấn đề của học sinh các châu lục cũng rất khác nhau.
Tổng quan những nghiên cứu cho thấy, những nghiên cứu ở nước ngoài với
tính chất đa dạng, phong phú từ cấp độ cá nhân đến cấp độ xã hội, với nhiều đối
tượng và khách thể nghiên cứu khác nhau. Đặc biệt là tính ứng dụng cao của các
nghiên cứu thuộc lĩnh vực này.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã góp phần cải thiện đời
sống, vật chất, tinh thần của mỗi người dân. Tuy nhiên, đi kèm với những thay đổi
mang tính tích cực đó, những khó khăn trong cuộc sống mà mỗi người phải đối diện
cũng nhiều hơn. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú, mỗi người ứng phó theo
những cách khác nhau và tiếc rằng không phải ai cũng giải quyết được khó khăn
một cách hiệu quả.
Trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội trong
việc giải quyết những khó khăn trong cuộc sống một cách phù hợp và hiệu quả, một
số tác giả đã bắt đầu quan tâm đến việc tìm hiểu cách thức ứng phó với khó khăn
Tác giả Phan Thị Mai Hương (2007) và các cộng sự đã đi sâu vào nghiên
cứu: “Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó khăn”. Đề tài đã được
tiến hành với mục đích tìm hiểu cách ứng phó của trẻ vị thành niên hiện nay trong
những tình huống khó khăn và những nhân tố góp phần hình thành các cách ứng xử
này nhằm đề xuất những kiến nghị đối với chương trình giáo dục và rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ vị thành niên. Nghiên cứu đã chỉ ra đặc điểm của các cách ứng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status